MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................1
PHẦN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.................................................2
I. Chuyển giá và các vấn đề về chuyển giá tại các tập đoàn kinh tế
nước ngoài tại Việt Nam :.....................................................................2
1.
Lý thuyết về chuyển giá :............................................................2
2.
Cơ sở và động cơ chính của hành vi chuyển giá :.......................3
II.
Thực trạng chuyển giá tại Việt Nam..............................................4
1.
Một số những hình thức chuyển giá tại Việt Nam như :.............5
2.
Các tác động từ chuyển giá.........................................................8
3. Phân tích văn bản ban hành về chống chuyển giá và một số biện
pháp khắc phục :.................................................................................9
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................16
PHẦN MỞ ĐẦU
Khi các quan hệ kinh tế được thiết lập đa dạng, có sự liên kết,
phối hợp giữa các chủ thể kinh doanh, thì việc xác định lợi ích kinh tế đã
vượt ra ngoài phạm vi của một chủ thể riêng lẻ, mà được tính trong lợi
ích chung của cả tập đoàn hay nhóm liên kết. Với môi trường cạnh tranh
ngày càng gay gắt, câu hỏi làm sao để lợi ích tổng thể đạt tối ưu luôn
được đặt ra với các chủ thể kinh doanh. Chuyển giá được xem là một lời
giải cho bài toán lợi ích mà ở đó nhà đầu tư không cần thêm vốn hay mở
rộng sản xuất. Đơn giản vì phương cách này giúp họ giảm tổng nghĩa vụ
thuế. Từ đó lợi nhuận sau thuế sẽ gia tăng.
Trong hoạt động kinh doanh quốc tế, sản phẩm của doanh nghiệp
không chỉ để bán cho các khách hàng độc lập mà còn được chuyển giao
cho các công ty con hoặc các công ty liên doanh mà doanh nghiệp có
một phần sở hữu, gọi là SP chuyển giao nội bộ. Việc định giá những SP
này được gọi là định giá chuyển giao nội bộ (Transfer Prices). Về lý
thuyết, việc định giá chuyển giao nội bộ quốc tế cũng giống như việc
định giá chuyển giao nội bộ trong nước. Tuy nhiên, kỹ thuật định giá
chuyển giao quốc tế phức tạp hơn nhiều so với trong nước do quá trình
ra quyết định chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố quan trọng và khó xác
định.
1
Tuy nhiên vấn đề chuyển giá ở Việt Nam còn hết sức mới mẻ.
Trong xu thế mở rộng cửa chào đón các tập đoàn kinh tế quốc tế, phát
huy nội lực với các tổng công ty và các công ty liên kết thì chuyển giá sẽ
là công cụ dễ được các chủ thể kinh doanh sử dụng nhằm thay đổi những
nghĩa vụ thuế phải thực hiện với nhà nước. Sự mới mẻ và chứa đựng
những hấp dẫn về lợi ích kinh tế của chuyển giá là điều được các nhà
quản lý lưu tâm, được các chủ thể kinh doanh, người hoạch định chiến
lược tài chính của doanh nghiệp lên chương trình hành động cho mình.
I.
PHẦN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyển giá và các vấn đề về chuyển giá tại các tập đoàn
kinh tế nước ngoài tại Việt Nam :
1. Lý thuyết về chuyển giá :
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với
hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong
tập đoàn qua biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số
thuế của các công ty đa quốc gia (Multi Nations Company) trên toàn
cầu.
Chuyển giá là một khái niệm kinh tế trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của các công ty đầu tư nước ngoài, công ty xuyên quốc gia
2
(đa quốc gia).Từ khi có đầu tư nước ngoài tại VN, tình trạng chuyển giá
thường xuyên xảy ra và ngày càng tinh vi, khởi đầu nó vượt ra khỏi tầm
kiểm soát của các nhà quản lý ( Nhà nước và doanh nghiệp hợp tác , liên
doanh), nhưng rồi ngày càng bế tắc và hiện nay cũng chưa có biện pháp
nào sáng sủa để quản lý được việc chuyển giá.
Khi nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng ta có hai vấn đề cần
bàn tới đó là vốn FDI và mặt trái đó là sự thất thu thuế do hiện tượng
chuyển giá gây ra. Trong những năm đầu thời kỳ hội nhập nguồn vốn
FDI đã cải thiện rất nhiều cho GDP quốc dân, khoa học kỹ thuật… Bên
cạnh đó do các văn bản quy định về giá chuyển giao tại Việt Nam chưa
hoàn thiện nên dẫn tới một số hình thức đẩy lỗ sang công ty con tại nước
sở tại gây thất thoát nguồn thu thuế, về bản chất kinh tế thì chuyển giá
gây thiệt hại cho nền kinh tế chúng ta, đó là một sự gian lận trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, không sòng phẳng, làm thất thoát thu nhập
quốc dân và đương nhiên thất thoát tài sản doanh nghiệp trong nước, tài
chính quốc gia. Tuy nhiên, đánh giá trên phương diện khách quan thì
nguồn vốn FDI mang lại nhiều lợi ích hơn nhưng không phải thế mà
việc đặt ra các quy định mới về chuyển giá bị xem nhẹ. Việc làm này
một phần làm nâng cao công tác quản lý thuế của quốc gia và chấn chỉnh
hoạt động tài chính của các tập đoàn kinh tế.
Hiểu theo nghĩa cụ thể thì chuyển giá là một hành vi do các chủ
thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị thực của hàng hóa khi
trao đổi, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết. Hành vi ấy có đối
3
tượng tác động chính là giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong
những giao dịch như thế xuất phát từ ba nguyên nhân sau:
- Xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ
thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch.
Do đó họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ
với giá họ mong muốn.
- Các mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết
nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ
thể kinh doanh có cùng lợi ích không làm thay đổi lợi ích toàn
cục.
- Việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên
trong nhóm liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng
có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc
định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao
sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác
nhau về chính sách thuế của các quốc gia là điều không tránh
khỏi do chính sách kinh tế - xã hội của họ không thể đồng nhất,
cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế là điều tất
yếu. Chênh lệch mức độ điều tiết thuế vì thế hoàn toàn có thể
xảy ra.
Hành vi chuyển giá được thể hiện thông qua các chủ thể kinh
doanh thực hiện bằng cách thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ
trong quan hệ với các bên liên kết nhằm tối thiểu hóa tổng số thuế phải
nộp của các đối tác liên kết. Các đối tác liên kết ở đây có thể là: Các
4
công ty thành viên trong một công ty đa quốc gia; Các công ty hoặc đơn
vị thành viên trong một tổng công ty, công ty; Các công ty độc lập mà
chủ sở hữu của chúng có mối quan hệ đặc biệt, thường là mối quan hệ
thân nhân.
2. Cơ sở và động cơ chính của hành vi chuyển giá :
Cơ sở cho việc chuyển giá xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong
kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một
giao dịch kinh tế. Do vậy, họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa,
dịch vụ với giá họ mong muốn. Quyền này được pháp luật về kinh
doanh của mọi quốc gia thừa nhận, nó chỉ bị hạn chế bởi các quy định
pháp luật có liên quan, chẳng hạn như pháp luật về cạnh tranh, về
thương mại hoặc chính bởi những điều luật về định giá chuyển giao.
Động cơ chính của hành vi chuyển giá là lợi nhuận của hoạt động
kinh doanh. Xét trên phương diện tổng thể, việc xác định giá giao dịch
giữa các thành viên của các bên liên kết không thay đổi tổng lợi ích
chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua
việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi
bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Chẳng hạn như, công ty B và C đều là
công ty con của tập đoàn A. Công ty B áp dụng mức thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp 25%. Công ty C kinh doanh ở địa bàn kinh tế - xã
hội khó khăn nên được áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp 10%. Khi B cung cấp vật tư cho C với giá thấp hơn giá thị trường
5
giao dịch sòng phẳng thì làm cho lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh
nghiệp của B giảm đi, còn lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp
của C tăng lên tương ứng. Phần lợi nhuận tăng lên ở công ty C chỉ phải
chịu thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất 10%. Nếu bán đúng giá
thị trường thì phần lợi nhuận này nằm ở công ty B và phải chịu thuế suất
25%. Như vậy, nếu xét riêng biệt thì công ty B thiệt, còn công ty C được
lợi. Nhưng xét tổng thể thì tổng thuế phải nộp của cả hai công ty đã
giảm đi. Xác lập giá là quyền tự do định đoạt của các bên tham gia trong
giao dịch. Nhà nước không thể can thiệp trừ khi giá được định ra ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể khác trong xã hội. Thuật ngữ
“chuyển giá” là phù hợp cho một quan hệ mang tính tiêu cực như vậy.
Vấn đề điều chỉnh pháp luật cũng nên tiếp cận ở góc độ “Kiểm soát
chuyển giá”, cho phép chúng ta thiết lập một cơ chế sẵn sàng cho việc
kiểm tra, phát hiện và xử lý nếu hành vi chuyển giá gây ra thiệt hại.
II.
Thực trạng chuyển giá tại Việt Nam
Tại Việt Nam chuyển giá là một vấn đề không còn mới mặc dù vậy
chuyển giá vẫn luôn là vấn đề nan giải đặt ra cho các đơn vị quản lý tài
chính Nhà nước. Hiện nay, chuyển giá tại các doanh nghiệp nước ngoài
có phần tinh vi, phức tạp và biến đổi biến thể dựa theo các căn cứ quy
định chuyển giá. Theo số liệu thống kê của Chi cục thuế TP HCM 7
tháng đầu năm nay hơn 1300 doanh nghiệp FDI đã xác định có lãi sau
nhiều năm báo cáo kết quả kinh doanh lỗ, kết quả báo lỗ này còn biểu
hiện ở hầu hết các Khu công nghiệp có DN nước ngoài nhiều tại Đồng
6
Nai và Bình Phước, câu chuyện không còn dừng lại tại một số doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà một số doanh nghiệp trong nước
cũng có biểu hiện tương tự.
Điển hình là trường hợp xử phạt các DN FDI sản xuất, kinh doanh
chè ở Lâm Đồng. Bằng việc thực hiện nghiêm túc quy trình nghiệp vụ
về kiểm tra thuế, Chi Cục Thuế Lâm Đồng nhận thấy, giá thành nguyên
liệu chính của một kg chè Ô Long là 175.000 đồng. Trong khi đó, các
DN FDI XK loại chè này sang Singapore chỉ là 64.580 đồng/kg. Kết quả
kiểm tra tại trụ sở các DN FDI này đã đi đến kết luận về hành vi chuyển
giá của DN.
Hoạt động thanh tra và kiểm toán đối với việc tính giá chuyển giao
để tìm ra dấu hiệu vi phạm của DN FDI cũng được thực hiện ngày càng
nhiều hơn trong thời gian gần đây. Số lượng các cuộc thanh tra và phát
hiện vi phạm qua thanh tra cũng tăng thêm. Tuy nhiên, việc này mới chỉ
dừng lại ở một số tỉnh, thành phố lớn có vốn FDI nhiều như TP.HCM,
Đồng Nai, Lâm Đồng… chưa thực hiện ở các địa phương khác.
1. Một số những hình thức chuyển giá tại Việt Nam như :
1.1. Tăng chi phí quảng cáo và marketing :
Lấy đơn cử như một công ty A theo báo cáo tài chính năm 2009
của công ty này cho thấy doanh thu từ hàng hóa dịch vụ hơn 1.752 tỷ
đồng, trong đó chi phí sản xuất kinh doanh 1.562 tỷ đồng, lợi nhuận đạt
được là 190 tỷ kết quả lãi. Tuy nhiên, phần doanh thu được giảm trừ cho
7
hoạt động quảng cáo, khuyến mãi, chiết khấu cho đại lý, nhà phân phối...
là 171,3 tỷ đồng. Sau khi trừ các khoản chi phí khác dẫn đến lợi nhuận
thuần “âm” 72 tỉ đồng, lỗ lũy kế của DN này còn hơn 33,6 tỷ đồng.
Theo đó doanh nghiệp này đã lợi dụng chính sách ưu đãi của VN
cho giảm trừ phần chi phí cho hoạt động quảng cáo, khuyến mãi nên đã
tìm mọi cách kê khai cả phần chi phí làm thương hiệu của tập đoàn mẹ.
Trong đó có cả chi phí quảng cáo lẽ ra công ty mẹ phải chịu nhưng họ đã
biến hóa cho công ty ở VN gánh bớt.
1.2. Giá bán thấp hơn so với chi phí
Các thủ thuật kinh doanh tại các DN có rất nhiều. Phổ biến là việc
kê giá nguyên liệu đầu vào rất cao, đồng thời tìm mọi cách khai tăng chi
phí quảng cáo, khuyến mãi nhằm triệt tiêu lợi nhuận. So với các DN
trong nước cùng ngành nghề có thể thấy chi phí sản xuất của DN FDI
thường cao bất thường.
Thêm một ví dụ tại DN FDI công bố giá bán thấp hơn giá vốn.
Doanh thu xuất khẩu luôn chiếm trên 99%. Tổng chi phí năm 2008 của
công ty này là 15.328 tỉ đồng trong khi tổng doanh thu là 12.974 tỉ
đồng . Tính đến năm sau tổng chi phí vượt lên 20.961 tỉ đồng thì tổng
doanh thu là 18.293 tỉ đồng. Năm 2009 tổng chi phí còn 15.434 tỉ đồng,
còn tổng doanh thu là 12.780 tỉ đồng. Điều này có thể cho thấy báo cáo
quyết toán của doanh nghiệp này có giá bán thấp hơn so với giá vốn
8
Để có thể biến báo cáo lãi thành lỗ thông qua hình thức chuyển
giá, các DN FDI không thể làm riêng lẻ mà hoạt động trong cùng tập
đoàn hoặc liên kết thành từng nhóm. Từ đó các đơn vị này tự dàn xếp
giá với nhau thông qua các giao dịch liên kết nhằm tìm kiếm thêm lợi
nhuận mà không phải bỏ thêm vốn hay mở rộng sản xuất. Với phương
thức sử dụng giá giao dịch nội bộ hay còn gọi là giao dịch liên kết, các
tập đoàn cũng giảm đi tổng nghĩa vụ thuế trên phạm vi toàn cầu nhằm
tăng lợi nhuận sau thuế.
1.3. Khai quá giá trị đầu tư
Phương thức mà các DN FDI thường sử dụng để trốn thuế là khai
quá giá trị đầu tư. Giá trị đầu tư một nhà máy chỉ 1 tỉ đồng nhưng đánh
giá lên 1,5 tỉ đồng. Với suất đầu tư ban đầu cao như vậy, hoạt động của
DN nước ngoài không có lãi vì chi phí đầu tư cao hệ quả giá thành cao
và kết quả kinh doanh lỗ.
Bên cạnh việc báo cáo mức vốn đầu tư ban đầu, hoạt động chuyển
giá còn có thể thực hiện cả trong quá trình nhập khẩu nguyên liệu và
xuất thành phẩm. Cách sử dụng phổ biến là công ty mẹ ở nước ngoài bán
nguyên vật liệu, thiết bị, máy móc cho công ty con với giá cao hơn giá
thị trường để làm tăng chi phí. Chuyển giá cũng giúp các doanh nghiệp
tránh được rắc rối trong việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài trong
trường hợp khó mua được ngoại tệ quy đổi hay giới hạn sở hữu ở một số
ngành...
9
Theo ví dụ sau đơn cử với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, một
doanh nghiệp Hoa Kỳ thành lập một đơn vị kinh doanh ở Singapore do
thuế suất thấp, đồng thời xây dựng một nhà máy sản xuất ở Việt Nam do
các điều kiện môi trường ít khắt khe và lao động rẻ hơn. Dựa vào các
hiệp định tránh đánh thuế hai lần nên doanh nghiệp sẽ chọn Singapore
để nộp thuế 17% thay vì 25% ở Việt Nam hay khoảng 30% ở Hoa Kỳ
bằng cách khai khống chi phí đầu vào nhập khẩu và hạ thấp giá bán đầu
ra của nhà máy ở Việt Nam. Ngoài ra, do thuế suất thuế thu nhập cá
nhân ở Singapore thấp hơn nhiều so với Việt Nam, nên những người lao
động nước ngoài muốn đăng ký và nhận lương tại Singapore hơn. Nếu
một người Việt và một người nước ngoài yêu cầu một mức thu nhập
ròng như nhau thì doanh nghiệp sẽ tuyển dụng người nước ngoài. Kết
quả, Việt Nam không chỉ mất thuế và việc làm có kỹ năng cao, mà tình
trạng nhập siêu còn trầm trọng hơn.
Vấn đề theo sự biến tướng của chuyển giá đó là gửi giá, với
chuyển giá thì có nhiều phương pháp để làm nhưng gửi giá thì độ phức
tạp cao hơn, theo đó việc đơn vị chủ quản hợp thức hóa chứng từ, cơ
quan chức năng phải tìm đến nơi nhận mua bán mới phát hiện ra được.
Ví dụ một công ty mua một loại hàng hóa 2 triệu USD, mọi khâu
từ chuyển tiền, hoạch toán sổ sách, nhận hàng vẫn đủ. Bên mua hàng thì
trả 2 triệu USD nhưng cái giá thật của hàng hóa đó thì có thể rất rẻ. Và
bên bán lại chuyển một phần lại, khoảng 10% cho bên ký hợp đồng. Như
10
vậy, chuyển giá là vẫn đảm bảo chuyển lợi nhuận sang các quốc gia
khác còn ở đây gửi giá là một hình thức tham nhũng
Hình thức chuyển giá còn được tìm thấy tại các đơn vị xây dựng
đầu tư cơ bản, đền bù đất đai. Thay vì mua hoặc thỏa thuận sửa chữa cơ
sở vật chất một khoản chi cố định nhưng vẫn có thể nâng nâng chi phí
lên. Chi phí ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp không đổi nhưng chi
phí rút ra trong khoản đã chi lại là người ký kết hợp đồng được hưởng
hoặc nhóm người hưởng. Công trình xây dựng thất thoát được hình
thành chất lượng kém, thất thoát nguyên vật liệu được trích ra từ khoản
đã giải ngân và tiền thuế.
Ví dụ đối với sản phẩm sắt thép với quy định là 20 tấn, nhưng thực
tế có 10 tấn, hoặc thay vào đó là những cái khác hoặc chủng loại khác
nhưng chứng từ giả hoàn thuế vẫn đủ 20 tấn. Ở đây, đơn vị đã dùng các
chứng từ khống để khấu trừ thuế đầu vào. Như vậy là thất thoát thuế,
thất thoát của tiền cấp phát để mua 20 tấn thép đó. Và thất thoát này là
không thể quản lý được.
Qua các ví dụ cho thấy, vấn đề không chỉ là chuyển giá không
đúng với giá thị trường mà còn là gửi giá. Vì thế sự phối hợp giữa các cơ
quan thuế, kiểm toán, cơ quan thanh tra để kiểm tra các đơn vị trong
việc gửi giá là điều cấp bách chống thất thoát thuế cho Nhà nước và
giảm chất lượng sản phẩm.
2. Các tác động từ chuyển giá
11
Khi xảy ra hành vi chuyển giá mà không có quy định pháp luật để
xử lý hoặc không được xử lý theo quy định của pháp luật thì sẽ có hai
tác động cơ bản sau:
Thứ nhất, làm thất thu ngân sách nhà nước. Đây có thể coi là tác
động hiển nhiên đầu tiên vì với việc doanh nghiệp được lợi về thuế thì
phần thuế lẽ ra có thể thu được theo Luật đã không được nộp vào ngân
sách nhà nước, và thực tế ở Việt Nam thì số thất thu này không nhỏ.
Thứ hai, tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các
chủ thể kinh tế. Mặc nhiên, khi một doanh nghiệp được hưởng lợi về
nghĩa vụ thuế thông qua hành vi chuyển giá, doanh nghiệp này sẽ thu lợi
cao hơn những doanh nghiệp khác có cùng điều kiện nhưng không thực
hiện hành vi chuyển giá. Một môi trường cạnh tranh lành mạnh phải tạo
ra khả năng hưởng lợi chính đáng từ hoạt động kinh doanh chính đáng.
Ngoài ra, với việc được lợi nhờ chuyển giá, các doanh nghiệp này có thể
mua nguyên liệu đầu vào với giá cao làm cho các doanh nghiệp khác
không thể mua được nguyên liệu phục vụ sản xuất, kinh doanh, đẩy các
doanh nghiệp khác vào tình trạng phá sản.
3. Phân tích văn bản ban hành về chống chuyển giá và một số
biện pháp khắc phục :
Một trong những chức năng nhiệm vụ thuế là thực hiện công tác
kiểm tra thanh tra, trong đó có thanh tra về chống chuyển giá. Tuy nhiên
chúng ta phải đi về nguyên tắc của cơ chế quản lý thuế của Việt Nam
12
cũng như của quốc tế. Các DN hiện nay tự tính, tự khai, tự nộp thuế. Cơ
quan Thuế có nhiệm vụ thông báo chính sách thuế, hỗ trợ DN trong việc
thực hiện nghĩa vụ thuế đồng thời thực hiện chức năng kiểm tra, thanh
tra để chấn chỉnh, xử lý vi phạm.
Tuy nhiên, kiểm tra hoạt động chuyển giá không phải là điều dễ
dàng. Muốn có căn cứ kết luận các DN có hoạt động chuyển giá phải
chứng minh được hạch toán, giá bán giá mua của họ không phù hợp giá
thị trường. Ví dụ một nhãn ô tô, giá bán sản phẩm chỉ có ở Việt Nam,
không có nhiều giá khác nhau để so sánh. Làm thế nào xác định được
giá bán đó không đúng, rất khó, vì cần có căn cứ pháp lý xác định giá thị
trường và giá thực tế họ bán tại Việt Nam, mà lấy thông tin giá bán sản
phẩm của DN họ nơi khác để truy thu thuế ở Việt Nam từ việc yêu cầu
họ cung cấp là thiếu khả thi.
Từ năm 2005, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số
117/2005/TT-BTC ngày 19/12/2005 hướng dẫn thực hiện việc xác định
giá thị trường trong giao dịch kinh doanh và hiện nay đã có Thông tư số
66/2010/TT-BTC để hướng dẫn về vấn đề này, nhưng để có kết luận và
thu hồi được thuế tại các DN chuyển giá không nhiều. Phải có cơ sở thu
thập thông tin của nước ngoài, xem sản phẩm tại Việt Nam cùng sản
phẩm tương đương họ bán tại nước ngoài như thế nào. Đối chiếu được
rất khó, đưa các biện pháp áp dụng thực tiễn cũng không dễ dàng. Sau 5
năm ban hành Thông tư 117 triển khai chưa hiệu quả nên Bộ Tài chính
13
mới đây bổ sung Thông tư 66. Bên cạnh đó, để thanh tra DN chuyển giá,
cán bộ thuế phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn giỏi, ngoại ngữ giỏi,
nắm chắc quy trình kiểm tra, giá bán, hoạt động DN. Hiện nay, ở Việt
Nam, kinh nghiệm đó chưa nhiều, cần thời gian để cán bộ học tập, trau
dồi.
Với Thông tư 66 mới, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã triển khai
chỉ đạo rất quyết liệt, đưa công tác kiểm tra chuyển giá vào trọng tâm
chống thất thu ngân sách Nhà nước. Tất cả các địa phương đều tiến hành
triển khai tập huấn, thực hiện chỉ đạo của Tổng cục Thuế theo công văn
số 2704/TCT-CC ngày 23/7/2010 “Tập trung nguồn lực, triển khai thực
hiện một chiến dịch thanh tra chống chuyển giá; tập trung vào một số
ngành, lĩnh vực trọng điểm, đặc biệt là các DN có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài kê khai thua lỗ lớn, liên tục trong nhiều năm để thực hiện
thanh tra trước, sau đó rút kinh nghiệm để triển khai thường xuyên nhằm
đảm bảo chống thất thu NSNN và công bằng trong nghĩa vụ thuế”.
Tổng cục Thuế đã và đang phối hợp với tổ chức quốc tế, các dự
án hỗ trợ cơ quan thuế VN trong các dự án cải cách thủ tục hành chính
thuế. Nhờ chuyên gia nước ngoài giảng kinh nghiệm thanh tra của các
nước có kinh nghiệm chống chuyển giá tốt như Nhật Bản. Họ giúp đào
tạo cán bộ thuế nâng cao năng lực, nghiệp vụ chuyên ngành. Bên cạnh
đó tăng cường việc học tập kinh nghiệm của OECD và kinh nghiệm
chống chuyển giá của các vùng lãnh thổ Châu Á.
14
Thông qua các bài trình bày của cơ quan thuế, Hiệp hội nghề
nghiệp về tư vấn thuế liên quan đến chống chuyển giá, hình thức điều
tra, kinh nghiệm thanh tra chống chuyển giá trong từng trường hợp cụ
thể… kết hợp với sử dụng cơ sở dữ liệu ngành thuế để nâng cao năng
lực, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ thuế. Bước khởi đầu là triển khai
trọng điểm, từ đó mở rộng triển khai nhiều đơn vị để chấn chỉnh hoạt
động chuyển giá. Ngoài ra, cơ quan thuế đề nghị DN nộp tờ khai hàng
năm về các giao dịch liên kết để cơ quan thuế theo dõi.
Chuyển giá đã được các nhà hoạch định chính sách tài chính Việt
Nam xác định là một vấn đề cần được quan tâm quản lý khi mà ngày
càng xuất hiện nhiều dấu hiệu chuyển giá trong giao dịch có yếu tố nước
ngoài. Văn bản pháp lý đầu tiên đề cập đến chuyển giá là Thông tư
74/1997/TT-BTC hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài, sau
đó là Thông tư 89/1999/TT-BTC và Thông tư 13/2001/TT-BTC. Đến
Thông tư 05/2005/TT-BTC hướng dẫn về thuế nhà thầu thì vấn đề này
được bỏ ra khỏi nội dung điều chỉnh. Cho đến 19/12/2005, chuyển giá
đã được nhắc lại tại Thông tư 117/2005/TT-BTC do Bộ Tài chính ban
hành hướng dẫn việc thực hiện xác định giá thị trường trong các giao
dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Tính đến nay, Thông
tư 117/2005/TT-BTC có thể được xem là văn bản pháp lý điều chỉnh
một cách khá chi tiết về biện pháp chống chuyển giá bằng phương pháp
định giá chuyển giao. Ý nghĩa của việc định giá chuyển giao là xác định
15
lại giá giao dịch giữa các doanh nghiệp liên kết nhằm đưa giá giao dịch
liên kết về đúng với giá thị trường.
Đối tượng áp dụng phương pháp định giá chuyển giao là tổ chức,
cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện một phần hoặc
toàn bộ hoạt động kinh doanh tại Việt Nam có giao dịch kinh doanh với
các bên có quan hệ liên kết có nghĩa vụ kê khai, xác định nghĩa vụ thuế
TNDN ở Việt nam. Phạm vi áp dụng bao gồm các giao dịch mua, bán,
trao đổi, thuê, cho thuê, chuyển giao hoặc chuyển nhượng hàng hóa,
dịch vụ trong quá trình kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Nội
hàm tác động của những quy định này dường như cũng không giới hạn
điều chỉnh trong các giao dịch chuyển giá quốc tế. Các giao dịch liên kết
bị điều chỉnh cũng tương tự quy định của các nước hoặc theo Công ước
mẫu của OEDC về định giá chuyển giao. Nhưng phạm vi giao dịch
chuyển giá mà Việt Nam điều chỉnh có phần hẹp hơn vì không đề cập
đến những giao dịch như vay hoặc cho vay, hay như giao dịch được đề
cập mở rộng mang tính dự báo mà có thể gây tác động đến lợi ích của
doanh nghiệp liên kết.
Để xác định giá thị trường phải tuân thủ nguyên tắc dựa trên cơ sở
so sánh tính tương đương giữa giao dịch liên kết với giao dịch độc lập
từ đó lựa chọn ra phương pháp xác định giá phù hợp. Theo đó, dù là sử
dụng phương pháp nào thì việc so sánh cũng phải đưa giao dịch độc lập
làm cơ sở quy chiếu về điều kiện tương đương với giao dịch liên kết. Do
đó các giao dịch tương đối dùng để so sánh có thể không hoàn toàn
16
giống giao dịch liên kết nhưng phải đảm bảo là không có các khác biệt
trọng yếu. Trường hợp có khác biệt trọng yếu, việc so sánh phải dùng
biện pháp phân tích và đánh giá các tiêu thức ảnh hưởng dẫn đến khác
biệt nhằm loại trừ sự khác biệt mang lại sự tương đồng. Có 4 tiêu thức
được xem là những yếu tố có thể gây ra sự khác biệt, đó là đặc tính của
sản phẩm, chức năng hoạt động của cơ sở kinh doanh, điều kiện của hợp
đồng giao dịch và điều kiện kinh tế khi diễn ra giao dịch.
Quá trình phân tính, đánh giá sẽ chỉ ra phương thức xác định giá
thị trường nào là phù hợp nhất. Khác với các quy định trước đây, chỉ có
3 phương pháp được áp dụng, không đủ để bao quát hết các khả năng
phải xác định giá, trong lần quy định này, thông tư 117/2005/TT-BTC
đã đưa ra 5 phương pháp định giá chuyển giao. Đó là:
- Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập: dựa vào đơn giá sản
phẩm được vận dụng trong trường hợp giao dịch độc lập có điều kiện
tương đương với giao dịch liên kết.
- Phương pháp giá bán lại: áp dụng trong trường hợp không có
giao dịch mua tương đương, thuộc khâu cung ứng hoặc có thêm giai
đoạn gia công, chế biến, lắp ráp... làm gia tăng giá trị hàng hóa, nên phải
sử dụng giá bán lại của sản phẩm do cơ sở kinh doanh bán cho bên độc
lập để xác định giá mua vào của giao dịch liên kết.
- Phương pháp giá vốn cộng lãi: được lựa chọn khi giao dịch liên
kết thuộc khâu sản xuất khép kín để bán cho bên liên kết hoặc cung ứng
đầu vào và bao tiêu đầu ra cho bên liên kết. Phương pháp này xác định
17
giá dựa vào giá vốn hay giá thành của sản phẩm để xác định giá bán ra
của sản phẩm đó cho bên liên kết.
- Phương pháp so sánh lợi nhuận: để thực hiện phương pháp này
phải dựa trên tỷ suất sinh lời của sản phẩm trong giao dịch độc lập được
chọn. Phương pháp này không cho ra kết quả về giá mà tính ra được thu
nhập thuần trước thuế là cơ sở tính thuế TNDN. Đây được xem là
phương pháp mở rộng của phương pháp giá bán lại và giá vốn cộng lãi,
nên có thể áp dụng đối chiếu trong trường hợp có những điều kiện tương
tự.
- Phương pháp tách lợi nhuận: được áp dụng trong trường hợp
nhiều bên liên kết cùng thực hiện một giao dịch liên kết tổng hợp, chẳng
hạn như cùng tham gia nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, hoặc sản
phẩm là tài sản vô hình độc quyền, kinh doanh chuyển tiếp từ khâu đầu
đến khâu cuối gắn với quyền sở hữu trí tuệ. Việc tách lợi nhuận của từng
bên liên kết trong giao dịch dựa trên cách mà các bên độc lập thực hiện
phân chia lợi nhuận trong các giao dịch độc lập tương đương. Trường
hợp do tính đặc thù hoặc duy nhất của giao dịch liên kết mà không có có
giao dịch độc lập tương đương để chọn một trong các phương pháp trên
so sánh thì có thể sử dụng biện pháp tổng hợp (như mở rộng phạm vi lựa
chọn sang phân ngành khác, xác định biên độ giá thị trường thích hợp
bằng các phương pháp tổng hợp...) hoặc vận dụng các số liệu giữa kỳ
(để tính mức giá sản phẩm, tỷ suất lợi nhuận...).
Một số giải pháp khác
18
Một là, hoàn thiện hành lang pháp lý về chống chuyển giá.
Những nội dung cụ thể cần hoàn thiện hành lang pháp lý về chống
chuyển giá là: (i) Trước mắt cần bổ sung một điều luật về chống chuyển
giá vào Luật Quản lý thuế, về lâu dài nên ban hành Luật Chống chuyển
giá – đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho hoạt động chống chuyển
giá, không chỉ có ý nghĩa đối với quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp mà
còn liên quan đến quản lý thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế tài nguyên...; (ii) Có quy định pháp lý cụ thể về các khoản chi từ
ngân sách nhà nước cho các hoạt động kiểm tra, thanh tra và điều tra
chống chuyển giá; và (iii) Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan
chức năng có liên quan với cơ quan thuế trong hoạt động chống chuyển
giá, đặc biệt là sự phối hợp của các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở
nước ngoài.
Hai là, thu hẹp các ưu đãi thuế. Như đã nêu trong phần phân tích
cơ sở của hành vi chuyển giá, chênh lệch thuế thu nhập doanh nghiệp
giữa các quốc gia, chênh lệch thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
trong một quốc gia do áp dụng thuế suất ưu đãi và các ưu đãi khác như
miễn, giảm thuế là tiền đề để các doanh nghiệp thực hiện hành vi chuyển
giá. Hiển nhiên, vì những mục tiêu nhất định, cần phải thực hiện ưu đãi
thuế, song cần cân nhắc các cách thức khác để điều tiết các vấn đề kinh
tế, chỉ sử dụng ưu đãi thuế trong những trường hợp có lợi nhất so với các
hình thức ưu đãi khác, chẳng hạn như trợ cấp, trợ giá, hỗ trợ phát triển
19
- Xem thêm -