MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam và Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày
21/ 03/1973. Trong 30 năm qua, quan hệ kinh tế giữa hai nước không
ngừng phát triển trong đó quan hệ thương mại ngày càng được tăng
cường mạnh mẽ. Đặc biệt từ khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, Nhật
Bản đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, có vai trò quan
trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam.
Quá trình phát triển thương mại giữa hai nước có thể chia làm
ba giai đoạn ; 1973 - 1986, 1987 - 1992, 1993 cho đến nay với hai
bước ngoặt quyết định vào năm 1987 và 1992. Trước năm 1987,
quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn được duy trì nhưng nói chung
không ổn định và còn ở mức độ thấp. Trong giai đoạn này, buôn bán
giữa hai nước gia tăng từ năm 1973 đến năm 1978, sau đó giảm đi
trong những năm 1979 - 1982. Sau đó đến năm 1986, quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản phát triển trở lại. Từ năm
1987, Việt Nam bước vào một giai đoạn mới với công cuộc đổi mới
chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường và thực hiện chính sách
mở cửa. Đây là bước ngoặt lớn của Việt Nam trong phát triển kinh tế
cả đối nội cũng như cả đối ngoại. Quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Nhật Bản cũng bước vào một giai đoạn mới với hai đặc
trưng là sự tăng lên vững chắc về khối lượng buôn bán và sự quan
tâm ngày càng cao của các nhà kinh doanh và các công ty Nhật Bản
đối với thị trường Việt Nam. Năm 1992 là năm đầu tiên giá trị buôn
bán giữa hai nước đạt trên 1 tỷ USD. Từ năm 1992 cho dến naynhững năm đầu tiên của thế kỷ thứ 21, quan hệ thương mại giữa hai
nước liên tục có sự phát triển khả quan mặc dù có sự suy giảm trong
hai năm 1998 - 1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ ở châu Á. Nguyên nhân cơ bản nhất, quan trọng nhất thúc đẩy
quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển ngày càng mạnh mẽ là
hoàn cảnh môi trường quốc tế và khu vực thuân lợi; công cuộc đổi
mới của Việt Nam với các chính sách kinh tế đối ngoại năng động,
phù hợp với xu thế phát triển thời đại và lợi ích của cả hai bên Nhật
-1-
Bản - Việt Nam ... Đương nhiên, đó mới chỉ là những nguyên nhân
có tính khách quan bên ngoài đối với Nhật Bản. Điều cần lưu ý là về
phía chủ quan Nhật Bản: sự chuyển hướng chiến lược trong chính
sách đối ngoại nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng
của Nhật Bản đối với các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói
riêng kết hợp với các sự kiện chính trị quan trọng khác như Mỹ huỷ
bỏ chính sách cấm vận thương mại chống Việt Nam ( tháng 2/ 1994),
Mỹ tuyên bố bình thường quan hệ với Việt Nam( tháng 7/ 1995) và
Việt Nam gia nhập ASEAN( tháng 7 / 1995) ...
Tuy nhiên , quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong
những năm qua còn nhiều hạn chế như tỷ trọng xuất nhập khẩu trong
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước là chưa hợp lý dẫn đến
Việt Nam luôn xuất siêu, cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá giữa hai
nước còn nhiều bất cập ...Vì vậy nhiều vấn đề đặt ra cần được nghiên
cứu như : tại sao kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản
đã tăng lên một cách nhanh chóng nhưng tỷ trọng của nó trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại tăng giảm thất thường? Quan
hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản đã tương xứng với tiềm năng
vốn có của hai nước hay chưa? Việt Nam cần phải làm gì để thúc đẩy
và nâng cao hiệu quả của quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản.
Mặc dù cho đến nay trong quan hệ thương mại Việt - Nhật vẫn
còn khó khăn, song trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá thương
mại, gần đây Nhật Bản cũng đã có một số động thái tích cực, đó là
liên minh tự do thương mại với một số quốc gia như Singapo,
Canađa, Chilê và Mêhicô và Nhật cũng đang nỗ lực xúc tiến việc
thành lập khối mậu dịch tự do với ASEAN, nhằm mở rộng hơn nữa
vai trò cường quốc kinh tế ở khu vực châu Á. Đây là một thay đổi
lớn trong chính sách thương mại của Nhật Bản vì cho đến tận cuối
những năm 1990, Nhật Bản vẫn cứng rắn không tham gia một thoả
thuận thương mại song phương nào mà chủ yếu chỉ dựa vào các tổ
chức đa phương như Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Chính vì
thế, hy vọng rằng trước những yêu cầu mới của bối cảnh toàn cầu
hoá và khu vực hoá các hoạt động kinh tế, sự thay đổi chính sách
thương mại quốc tế của Nhật Bản cùng với sự kiện kỷ niệm trọng thể
-2-
30 năm ngày chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam Nhật Bản trong năm 2003, trong tương lai gần hai nước sẽ ký kết
hiệp định về thương mại song phương, khi đó quan hệ thương mại
Việt - Nhật càng có điều kiện phát triển mạnh hơn nữa. Đương nhiên
để đạt được sự phát triển như vậy, về phía Việt Nam đòi hỏi chúng ta
phải nỗ lực thực hiện có hiệu quả cao nhất các giải pháp cơ bản về
phát triển ngoại thương Việt Nam nói chung và thương mại Việt Nhật nói riêng.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Ở Việt Nam từ trước đến nay các công trình của một số các tác giả
nghiên cứu liên quan đến quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản
là :
- Đỗ Đức Định, “ Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản đang
phát triển”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.
- Trần Anh Phương, chương 4: “ Quan hệ thương mại Việt Nam
- Nhật Bản trong những năm 1990 “ trong cuốn sách: Quan hệ
kinh tế Việt Nam- Nhật Bản trong những năm 1990 và triển
vọng ( Vũ Văn Hà chủ biên ), Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2000.
- Ngô Xuân Bình - Hồ Việt Hạnh , Chương 2 - mục 2.4. “ Quan
hệ kinh tế Nhật - Việt năm 2001” trong cuốn sách “ Nhật Bản
năm đầu thế kỷ XXI ” , Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội,
2002.
- Nguyễn Duy Dũng , “ Năm 2002: quan hệ kinh tế Việt Nam Nhật Bản tiếp tục phát triển ổn định ”, Tạp chí Nghiên cứu
Nhật Bản và Đông Bắc Á , số 1(43) 2- 2003.
- Nguyễn Xuân Thiên, “ 20 năm quan hệ thương mại Việt Nam –
Nhật Bản ” , Tạp chí Con số và Sự kiện số 1/1995 v.v..
Các công trình trên đây đã nghiên cứu về quan hệ thương mại Việt
Nam - Nhật Bản trong thời gian một số năm của thế kỷ 20 . Các công
trình nói trên đã nghiên cứu thực trạng quan hệ thương mại Việt Nhật , thuân lợi và khó khăn và có đưa ra những giải pháp để giải
quyết những khó khăn, bất cập đó tuy nhiên các công trình nói trên
mới chỉ đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn trong khoảng thời gian
-3-
mà các tác giả nghiên cứu mà khoảng thời gian đó đã qua, mặt khác
vấn đề mà các tác giả nghiên cứu chỉ là một nội dung trong công
trình mà các tác giả nghiên cứu hoặc nêú có tách riêng thì mới chỉ
dừng ở một bài báo, một chương sách... nên tính khái quát là rất cao,
không đi sâu nghiên cứu một cách sâu sắc, vì thế không thể giải
quyết được một cách căn bản các vấn đề đặt ra trong quan hệ thương
mại Việt Nam - Nhật Bản. Cho nên tác giả luận văn nghiên cứu vấn
đề này ở một phạm vi nghiên cứu rộng hơn và sâu sắc hơn của một
luận văn cao học. Hướng tiếp cận của luận văn là nghiên cứu trực
tiếp thực trạng quan hệ thương mại Việt- Nhật trong giai đoạn hiện
nay, phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, đề xuất những giải pháp
thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản phát triển hơn
nữa phù hợp với những lợi ích kinh tế, chính trị của Việt Nam và
Nhật Bản. Nhưng luận văn không tách rời, cô lập quan hệ thương
mại Việt Nam- Nhật Bản mà đặt trong quan hệ tác động qua lại với
các vấn đề kinh tế chính trị khác như đầu tư, ODA, hoạt động chính
trị và ngoại giao...
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả quan hệ thương mại Việt
Nam- Nhật Bản, góp phần phát triển quan hệ thương mại giữa hai
nước ngày càng sâu sắc hơn.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu : Nghiên cứu quan hệ thương mại Việt
Nam - Nhật Bản với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang
Nhật Bản và nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản.
- Phạm vi nghiên cứu : Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật
Bản có từ thế kỷ XVI - XVII nhưng luận văn tập trung phân
tích quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản từ năm 1976 đến
nay.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Ngoài các phương pháp cơ bản được sử dụng rộng rãi trong việc
nghiên cứu như duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá
khoa học, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp
phân tích và trường hợp đặc biệt sử dụng phương pháp phân tích so
-4-
sánh, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên
cứu.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
- Phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ thương
mại Việt Nam - Nhật Bản.
- Làm rõ những đặc điểm nổi bật của quan hệ thương mại Việt
Nam - Nhật Bản, xu hướng vận động và phát triển.
- Đề xuất những giải pháp đối với Việt Nam để thúc đẩy và nâng
cao hiệu quả quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ thương mại
Việt Nam - Nhật Bản
CHƯƠNG 2 : Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật
Bản
CHƯƠNG 3 : Những giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao
hiệu quả quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản
-5-
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN
1.1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ
1.1.1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối
Theo Adam Smith (1723-1790) - nhà kinh tế chính trị cổ điển
Anh cho rằng “ Sự giàu có của một quốc gia phụ thuộc vào số hàng
hoá và dịch vụ có sẵn hơn là sự phụ thuộc vào vàng ”.
Tại sao các nước cần phải giao dịch buôn bán với nhau? Tại
sao Việt Nam (hay bất cứ một quốc gia nào khác) không bằng lòng
với hàng hoá và dịch vụ sản xuất tại nước mình?
Trong cuốn “sự giàu có của các quốc gia” xuất bản năm 1776,
Adam Smith đã nghi ngờ về chủ nghĩa trọng thương vì cho sự phồn
vinh của một nước phụ thuộc vào châu báu mà nước đó tích luỹ
được. Thay vào đó, ông cho rằng sự giàu có thực sự của một nước là
tổng số hàng hoá và dịch vụ có sẵn ở nước đó. Ông cho rằng những
quốc gia khác nhau có thể sản xuất những loại hàng hoá khác nhau
có hiệu quả hơn những thứ khác.
Adam Smith cho rằng nếu thương mại không bị hạn chế thì lợi
ích của thương mại quốc tế thu được do sự thực hiện nguyên tắc
phân công. Ông phê phán sự phi lý của những hạn chế của lý tưởng
trọng thương và chứng minh rằng mậu dịch sẽ giúp ích cả hai bên
tăng gia sản - hiểu theo ý lợi tức thực sự qua việc thực thi một
nguyên tắc cơ bản : nguyên tắc phân công.
Theo cuốn “The Wealth of Nations - Sự giàu có của một quốc
gia” Adam Smith cho rằng : phương ngôn của mọi người chủ gia
đình khôn ngoan là không bao giờ tự sản xuất những gì mà nếu đi
mua sẽ được rẻ hơn. Người thợ may không khi nào hì hục đóng đôi
giày mà thường đi mua ở người thợ giày. Và người thợ giày cũng
không cần loay hoay cắt may, mà nhờ anh thợ may may hộ. Người
nông dân không tự làm lấy hai thứ trên, mà nhờ vào các tay thợ
-6-
khéo. Mọi người dân đều có lợi khi chăm chỉ làm công việc của
mình có lợi thế hơn láng giềng, và dùng một phần số sản phẩm của
mình hay tiền bán được số sản phẩm ấy để đi mua mọi thứ cần dùng
khác.
Những gì trong sinh hoạt cá nhân được coi là khôn ngoan ít khi
nào lại là một điều rồ dại đối với quốc gia. Nếu một nước ngoài có
thể cung cấp một loại hàng rẻ hơn là khi ta tự sản xuất, thì tốt hơn hết
nên đi mua loại hàng ấy, dành thì giờ chuyên chú vào một hoạt động
khác mà ta có lợi hơn, để bán lấy tiền tiêu dùng.
Theo Adam Smith, nếu quốc gia chuyên môn hoá vào những
ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối thì cho phép họ sản xuất
sản phẩm với chi phí và hiệu quả hơn các quốc gia khác.
Nhờ sự chuyên môn hoá, các nước có thế gia tăng hiệu quả do :
1) Người lao động sẽ lành nghề hơn do họ lặp lại cùng một thao
tác nhiều lần.
2) Người lao động không phải mất thời gian chuyển từ việc sản
xuất sản phẩm này sang sản xuất sản phẩm khác.
3) Do làm một công việc lâu dài, người lao động sẽ nẩy sinh các
sáng kiến, đề xuất các phương pháp làm việc tốt hơn.
Tuy nhiên, một nước chuyên môn hoá vào những sản phẩm nào?
Mặc dù Adam Smith cho rằng thị trường chính là nơi quyết định,
nhưng Ông vẫn nghĩ rằng lợi thế của một nước có thể là lợi thế tự
nhiên hay do nỗ lực của nước đó. Lợi thế tự nhiên liên quan đến các
điều kiện khí hậu và tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên có thể đóng vai trò quyết định trong việc sản
xuất có hiệu quả rất nhiều sản phẩm như càfê, chè, cao su, dừa..., các
loại khoáng sản.
Lợi thế do nỗ lực là lợi thế có được do sự phát triển của kỹ thuật và
sự lành nghề.
Ngày nay, người ta thường buôn bán, trao đổi các loại hàng hoá
đã được sản xuất công phu hơn là các nông phẩm hay tài nguyên
thiên nhiên nguyên khai hoặc sơ chế.
-7-
Quy trình sản xuất những loại hàng hoá này phần lớn phụ thuộc
vào ”lợi thế do nỗ lực” thường do kỹ thuật chế biến, là khả năng sản
xuất các loại sản phẩm khác nhau, khác biệt với các thứ khác. Ví dụ,
Đan Mạch sản xuất đĩa bạc không phải vì nước này có nguồn mỏ bạc
dồi dào mà do họ có thể sản xuất được những đĩa bạc thật đặc biệt.
Lợi thế về kỹ thuật chế biến là khả năng chế tạo các sản phẩm đồng
nhất có hiệu quả hơn. Ví dụ, Nhật Bản là nước phải nhập sắt và than,
là hai thành phần quan trọng và cần thiết cho quá trình sản xuất thép.
Nhưng nhờ có được quy trình sản xuất thép tiên tiến nên tiết kiệm
được nguyên liệu và lao động đã làm cho các nhà sản xuất thép Nhật
Bản rất thành công trong cạnh tranh trên thị trường.
Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có
thể được sản xuất ra, sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác
nhau. Một nước được coi là có lợi thế tuyệt đối so với nước kia trong
việc sản xuất hàng hoá A khi cùng một nguồn lực có thể sản xuất
được nhiều sản phẩm A ở nước thứ nhất hơn là nước thứ hai.
Giả sử Việt Nam có lợi thế tuyệt đối so với Hàn Quốc trong
một loại hàng hoá, trong khi Hàn Quốc lại có lợi thế tuyệt đối so với
Việt Nam một loại hàng hóa khác. Đó là trường hợp lợi thế tuyệt đối
tương hỗ. Mỗi nước đều có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất một loại
sản phẩm. Trong trường hợp như thế, tổng sản phẩm của cả hai nước
có thể tăng lên (so với nền kinh tế tự cung tự cấp) nếu mỗi nước
chuyên môn hoá sản xuất loại sản phẩm mà nước đó có lợi thế tuyệt
đối.
-8-
Ví dụ sau đây đưa ra tình huống giả định về sản lượng gạo và
vải vóc đều tăng lên khi mỗi nước sản xuất nhiều hơn số hàng hoá
mà nước đó có lợi thế tuyệt đối. Kết quả là sẽ có nhiều lúa gạo và vải
vóc cùng một chi phí về nguồn lực.
Bảng 1: Lượng lúa gạo và vải vóc có thể được sản xuất với một
đơn vị nguồn lực ở Việt Nam và Hàn Quốc.
Nước
Việt Nam
Hàn Quốc
Lúa gạo (tạ)
10
5
Vải vóc (m2)
6
10
Ta có thể thấy ngay Việt Nam có lợi thế trong việc sản xuất lúa
gạo, còn Hàn Quốc trong việc sản xuất vải.
Bảng 2: Những thay đổi xẩy ra khi chuyển một đơn vị nguồn lực
của Việt Nam sang sản xuất lúa gạo, và một đơn vị nguồn lực của
Hàn Quốc sang sản xuất vải.
Nước
Hàn Quốc
Việt Nam
Tổng số
Lúa gạo (tạ)
-5
+10
+5
Vải vóc (m2)
+10
-6
+4
Do việc chuyển đổi nguồn lực đầu vào của việc sản xuất lúa
gạo ở Việt Nam và vải ở Hàn Quốc, quá trình chuyên môn hoá sẽ
làm tăng sản lượng cả cả hai loại hàng hoá. Ví dụ này trình bày sự
thay đổi về sản lượng do chuyển một đơn vị nguồn lực từ việc sản
xuất vải sang việc sản xuất gạo (Việt Nam) và từ việc sản xuất lúa
-9-
gạo sang sản xuất vải (Hàn Quốc). Sản lượng trên thế giới tăng 5 tạ
lúa và 4m2 vải, trên toàn thế giới sẽ có lợi ích do chuyên môn hoá.
Trong trường hợp này có nhiều sự chuyển đổi nguồn lực sang sản
xuất lúa ở Việt Nam và càng có nhiều sự chuyển đổi nguồn lực sang
sản xuất vải ở Hàn Quốc thì lợi ích càng lớn.
Những lợi ích này của việc chuyên môn hoá sẽ khiến những lợi
ích của ngoại thương trở thành hiện thực. Việt Nam sẽ sản xuất nhiều
lúa gạo và Hàn Quốc thì sản xuất nhiều vải hơn so với trước khi hai
nước này còn ở tình trạng tự cung tự cấp. Như vậy, Việt Nam sẽ phải
sản xuất nhiều lúa gạo và ít vải hơn so với nhu cầu người tiêu dùng ở
Việt Nam và Hàn Quốc sẽ sản xuất nhiều vải và ít lúa gạo hơn so với
nhu cầu của người tiêu dùng ở Hàn Quốc. Nếu người tiêu dùng ở cả
hai nước có vải và lúa gạo theo một tỷ lệ mong muốn thì Hàn Quốc
cần phải xuất khẩu vải sang Việt Nam và nhập lúa gạo từ Việt Nam.
1.1.2 . Lý thuyết lợi thế so sánh
Lợi ích thương mại vẫn diễn ra ở những nước có lợi ích tuyệt
đối về tất cả các sản phẩm vì các nước này cần phải hy sinh sản
lượng kém hiệu quả để sản xuất ra sản lượng có hiệu quả hơn. Hay
nói cách khác những lợi ích do chuyên môn hoá và ngoại thương
mang lại phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải lợi thế tuyệt
đối.
Khi mỗi nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại
hàng hoá, lợi ích của ngoại thương là rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xẩy
ra nếu một nước có thể sản xuất có hiệu quả hơn nước kia trong hầu
hết các mặt hàng? Hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối nào
-10-
cả, thì chỗ đứng của họ trong phân công lao động quốc tế là ở đâu?
hoạt động thương mại diễn ra như thế nào với những nước này?
Trên thực tế đó là một câu hỏi mà David Ricardo từ hơn 170
năm trước và chính ông đã trả lời câu hỏi đó trong các tác phẩm với
tiếng của mình “Những nguyên lý của kinh tế chính trị, 1817” trong
tác phẩm này, David Ricardo đã đưa ra một lý thuyết tổng quát chính
xác hơn về cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế. Theo
David Ricardo, cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế là :
- Mỗi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc
tế bởi vì ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng
của một nước : do chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số sản
phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy
hàng hoá nhập khẩu từ nước khác.
- Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nước khác hoặc
bị kém lợi thế tuyệt đối hơn các nước khác trong việc sản xuất
mọi sản phẩm, thì vẫn có lợi thế khi tham gia vào phân công
lao động quốc tế bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất
định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một số mặt
hàng khác. Ví dụ sau đây minh hoạ về lợi thế so sánh giữa hai
nước Việt Nam và Hàn Quốc :
Bảng 3: Năng lực sản xuất trong trường hợp lợi thế tương đối
-11-
Các giả thiết
Đơn vị nguồn lực có sẵn
Đơn vị nguồn lực để sản xuất 1 tấn
lúa gạo
Đơn vị nguồn lực để sản xuất 1 kiện
vải
Sử dụng một nửa tài nguyên cho mỗi
loại sản phẩm khi không có ngoại
thương
Vải
Lúa gạo
Sản xuất
Việt Nam
100
3
4
Hàn Quốc
100
6
5
50
50
vải
50
50
Lúa gạo
12,5
10
22,5
16,6
8,3
24,9
Không có ngoại thương
Việt Nam
Hàn Quốc
Tổng cộng
6,3
24,9
Có ngoại thương (Việt Nam sản xuất
20
0
toàn bộ sản lượng lúa gạo cần thiết)
26,3
24,9
Việt Nam
Hàn Quốc
Tổng cộng
Có ngoại thương (Việt Nam sản xuất
2,5
30
lượng vải cần thiết còn lại)
20
0
Tăng sản xuất lúa gạo
22,5
30
Việt Nam
Hàn Quốc
Tổng cộng
Dù Việt Nam có lợi thế tuyệt đối cả hai loại sản phẩm, nhưng
Việt Nam lại có lợi thế tương đối trong việc sản xuất lúa gạo. Cũng
một nguồn lực, Việt Nam có thể sản xuất lúa gạo gấp hai lần so với
-12-
Hàn Quốc, còn về sản xuất vải thì Việt Nam lại chỉ có gấp hơn một
lần.
Cho dù Hàn Quốc bất lợi về sản xuất cả hai loại sản phẩm
nhưng Hàn Quốc vẫn có lợi thế tương đối về vải. Do sản xuất lúa gạo
của Hàn Quốc chỉ bằng 50% so với Việt Nam, còn sản xuất vải chỉ
bằng 75% so với Việt Nam.
Chúng ta giả thiết mỗi quốc gia đang có 100 đơn vị nguồn lực.
Nếu mỗi nước dùng một nửa đơn vị nguồn lực cho việc sản xuất mỗi
sản phẩm thì Việt Nam có thể sản xuất được 12,5 kiện vải (50/4) và
16,6 tấn lúa gạo (50/3), còn Hàn Quốc được 10 kiện vải (50/5) và 8,3
tấn gạo (50/6).
Nếu không có ngoại thương, sản lượng lúa gạo tổng cộng là
24,9 tấn (Việt Nam 16,6 tấn; Hàn Quốc 8,3 tấn) và 22,5 kiện vải
(Việt Nam 12,5 kiện; Hàn Quốc 10 kiện) .
Nhờ mở cửa buôn bán mà sản lượng lúa gạo và vải hay tổng
cộng cả hai loại sản phẩm có thể tăng thêm.
Nếu ta tăng sản xuất vải, mà không thay đổi sản xuất lúa gạo
như trước khi ta trao đổi, thì Việt Nam có thể sản xuất tất cả 24,9 tấn
lúa gạo bằng cách sử dụng 74,7 đơn vị nguồn lực (74,7/3) với 25,3
đơn vị nguồn lực còn lại, Việt Nam có thể sử dụng để sản xuất 6,3
kiện vải (25,3/4). Hàn Quốc trong trường hợp này sử dụng toàn bộ
nguồn lực của mình để sản xuất 20 kiện vải. Sản lượng lúa gạo tổng
cộng là 24,9 tấn, nhưng sản lượng vải tăng lên từ 22,5 kiện lên 26,3
kiện.
Nếu ta tăng sản xuất lúa gạo tại Việt Nam, và vẫn giữ nguyên
sản lượng vải như trước khi có buôn bán giữa hai nước, Hàn Quốc có
thể sử dụng toàn bộ nguồn lực của mình để sản xuất 20 kiện vải, Việt
Nam có thể sản xuất 2,5 kiện vải còn lại với 10 đơn vị nguồn lực
(10/4); 90 đơn vị nguồn lực còn lại Việt Nam có thể sản xuất 30 tấn
lúa gạo (90/3) không cần phải hy sinh lượng vải có sẵn trước khi có
ngoại thương, lượng lúa gạo vẫn tăng lên từ 24,9 tấn lên 30 tấn.
-13-
Xét cho kỹ thì lý luận của David Ricardo chỉ là mở rộng
nguyên tắc phân công. Một cách khái quát, cho cả quốc gia cũng như
cá nhân, chuyên môn hoá phải dựa theo khả năng.
Chúng ta thấy lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo đã đi
xa hơn quan điểm của Adam Smith về căn bản của mậu dịch quốc tế,
khắc phục được những hạn chế của lý thuyết thương mại dựa trên lợi
thế tuyệt đối của Adam Smith.
1.1.3. Lý thuyết về giá trị quốc tế, mối tương quan của cầu
Lý thuyết của David Ricardo mới chỉ đề cập đến yếu tố cung,
chưa chú ý tới yếu tố cầu. Để bổ sung cho khiếm khuyết này, J.Stuart
Mill đã bàn đến vấn đề giá trị quốc tế hay tỷ lệ trao đổi giữa các sản
phẩm. Ông là một trong những nhà kinh tế học của thế kỷ XIX ủng
hộ lợi ích của ngoại thương. J.Stuart Mill cho rằng “sự mở rộng của
ngoại thương... đôi khi là một kiểu cách mạng công nghiệp ở một
nước mà các nguồn lực của nó trước đó chưa được phát triển".
Thay vì so sánh phí tổn nhân công của quốc gia khi sản xuất ra
một sản phẩm ngang nhau, ông lại so sánh các sản phẩm sản xuất ra
của hai quốc gia khi sử dụng đầu vào nhân công ngang nhau.
Lý thuyết của S.Mill dựa trên năng xuất tương đối của nhân
công chứ không phải phí tổn của nhân công như D.Ricardo. Cấu trúc
của S.Mill như sau:
Bảng 4: Đầu vào và đầu ra hai sản phẩm ở hai quốc gia
Đầu vào
nhân công (số
ngày)
300
300
Quốc gia
Đầu ra
Rượu (thùng)
Vải (kiện)
Bồ Đào
100
75
Nha
50
60
Anh
Chúng ta thấy, cùng một nguồn lực (đầu vào) là nhân công, Bồ
Đào Nha có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất cả hai thứ hàng,
nhưng có lợi thế tương đối hơn về rượu (100/50=2/1 so với
-14-
75/60=5/4) . Ngược lại, Anh lại có lợi thế tương đối hơn về vải
(60/75=4/5 so với 50/100=1/2).
Một cách tổng quát, có thể phát triển nguyên tắc lợi thế tương đối
như sau:
Nếu với cùng một điều kiện đầu vào, người ta có thể sản xuất
được a1 và b1 lượng hàng A và B ở quốc gia I, và a 2 và b2 ở quốc gia
II thì quốc gia I sẽ xuất khẩu A để nhập B nếu a 1/b1>a2/b2, nghĩa là so
với quốc gia II, tương đối quốc gia I có khả năng sản xuất A nhiều
hơn B (hoặc có thể a1/a2>b1/b2) và ngược lại b2/b1>a2/a1 thì quốc gia
II sẽ xuất khẩu sản phẩm B và nhập khẩu sản phẩm A.
1.1.4. Quan điểm của Các Mác về ngoại thương
Trong học thuyết của mình, Các Mác chưa trình bày một cách
hệ thống các quan điểm về lý luận ngoại thương. Tuy nhiên trong
học thuyết kinh tế của CácMác, nhất là trong bộ “ Tư bản ” trong khi
phân tích về nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, quan điểm của
Các Mác về ngoại thương được hình thành. Lý luận về ngoại thương
của Các Mác có thể nói được tập trung ở những điểm sau đây:
Thứ nhất nguyên tắc chi phí ngoại thương là bình đẳng, cùng
có lợi. Sự phân tích của ông về ngoại thương là dựa trên quy luật giá
trị, Các Mác cho rằng chi phí về lao động là cơ chế cho trao đổi,
buôn bán hàng hoá giữa các nước, theo đó hạ thấp được chi phí lao
động thì hoạt động ngoại thương tất yếu là có lợi. Điều có nghĩa là
chi phí lao động là nguồn lực quan trọng nhất, là cơ sở quan trọng
nhất để phân tích lợi ích của ngoại thương. Trong mậu dịch quốc tế,
nguyên tắc trao đổi hàng hoá phải tuân theo nguyên tắc ngang giá.
Ông đã phê phán gay gắt quan điểm sai lầm, thô thiển của chủ nghĩa
trọng thương cho rằng “Trọng thương mại sở dĩ là một bên có lợi là
vì đã làm thiệt hại bên kia”.
Thứ hai, sự hình thành và phát triển của ngoại thương là tất yếu
khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế
-15-
thị trường tư bản chủ nghĩa là một nền kinh tế hàng hoá luôn đòi hỏi
thị trường ngày càng mở rộng, không chỉ là thị trường tiêu thụ sản
phẩm mà còn là thị trường cung cấp nguyên liệu cho sản xuất. Và
điều quan trọng hơn hết, ngoại thương xuất hiện là một tất yếu do sự
chi phối của quy luật giá trị thặng dư tối đa.
1.2. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM - NHẬT BẢN
1.2.1. Xu hướng chung của quan hệ thương mại quốc tế
* Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế
Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là từ
đầu những năm 1990 đến nay đã có tác động rất lớn đến quan hệ
kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản. Bước vào thập kỷ 90, xu hướng
hoà bình hợp tác và phát triển đã trở thành chủ đề chính của thời đại.
Hình thức chủ yếu của cạnh tranh quốc tế đã chuyển từ chạy đua vũ
trang thời kỳ chiến tranh lạnh sang cạnh tranh kinh tế. Có thể nói
rằng, kể từ sau chiến tranh thế giới hai, dưới sự tác động của quốc tế
hoá sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật không ngừng phát
triển, tính tuỳ thuộc lẫn nhau và bổ sung cho nhau của nền kinh tế
các nước vốn đã khá phát triển lại càng gia tăng mạnh mẽ trong xu
thế của quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Và chính quá trình
toàn cầu hoá và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày
càng chặt chẽ đã làm cho các hoạt động hợp tác và cạnh tranh giữa
các quốc gia cũng như giữa các công ty trên thế giới ngày càng phức
tạp và đa dạng. Đặc biệt là xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư
của các quốc gia và các công ty trong khu vực ngày càng mang tính
quy định và bổ sung cho nhau như một chính thể thống nhất. Không
phải ngẫu nhiên mà người ta thường cho rằng các trung tâm kinh tế
buôn bán của thế giới như Mỹ, Nhật Bản và EU đang dẫn dắt quá
trình tự do hoá và toàn cầu hoá hiện nay, đặc biệt trong việc chi phối
Quỹ tiền tệ quốc tế( IMF), Ngân hàng thế giới (WB), tổ chức thương
mại thế giới (WTO).
-16-
Thứ nhất, có thể nói xu thế toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế
đối ngoại của các nước nhằm thích ứng với một môi trường kinh tế
quốc tế mới và đang thay đổi. Dù biện minh dưới hình thức nào và
thay đổi hoạt động theo cách thức gì thì mục tiêu cuối cùng của các
quốc gia cũng như các nhà kinh doanh cũng là lợi nhuận, thị phần,
và những ảnh hưởng quốc tế ngày càng sâu rộng của mình. Để đạt
được những mục đích cần thiết này, các quốc gia phải bắt kịp, thích
ứng, và thậm chí phải đón đầu được với cả những triển vọng phát
triển mới của nền kinh tế thế giới.
Thứ hai, trong quá trình toàn cầu hoá, tiến bộ công nghệ nói
chung, đặc biệt là sự bùng nổ của cuộc cách mạng tin học trong
những năm gần đây đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế
công nghiệp sang nền kinh tế tin học trong nhiều quốc gia trên thế
giới. Đây là nhân tố nổi bật giúp cho việc điều hành một cách dễ
dàng các hoạt động kinh tế phân tán ở nhiều nơi khác nhau trên thế
giới bằng sử dụng rộng rãi các thiết bị tin học, nhờ đó các quốc gia
phát triển và các nhà kinh doanh không những có thể mở rộng các
hoạt động kinh tế về quy mô ra nước ngoài mà còn có thể tăng cường
các hoạt động về chiều sâu, đổi mới về phương thức tổ chức và quản
lý... Theo sự phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự trao đổi
và thông tin lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng trở nên rõ ràng và
thuận tiện. Chính vì thế, hoạt động thương mại và đầu tư không
những đã có thể phát triển rộng khắp đến những khu vực và các nền
kinh tế trên khắp thế giới mà còn có thể tiến sâu hơn vào những vùng
sâu, vùng xa và những nơi hẻo lánh mà trước đây không thể có điều
kiện vươn tới được.
Thứ ba, dưới tác động của toàn cầu hoá và cách mạng tin học,
các quá trình liên kết khu vực và toàn cầu cũng đang diễn ra mạnh
mẽ đòi hỏi các quốc gia phải sử dụng tối ưu các nguồn lực để hội
nhập có hiệu quả vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc
tế. Các tiến trình này sẽ làm nảy sinh nhu cầu kết hợp chặt chẽ giữa
các chính sách thương mại với đầu tư và viện trợ, đẩy mạnh tự do
hoá thương mại bằng cách dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế
-17-
quan giữa các quốc gia... Các nước phát triển có điều kiện thực hiện
các chiến lược đầu tư và thương mại mà trước đó luôn bị các hàng
rào bảo hộ phong toả thông qua việc đặt các chi nhánh ở nước ngoài
và cho phép các chi nhánh đó thực hiện đầu tư trực tiếp và mở rộng
buôn bán sang các nước thứ ba.
Vâỵ thực chất của toàn cầu hoá kinh tế là gì và những đặc trưng
cơ bản của quá trình này là như thế nào? thực chất của toàn cầu hoá
về kinh tế: “ là sự tự do hoá kinh tế và hội nhập kinh tế và hội nhập
quốc tế, mà trước hết là về thương mại đầu tư, và dịch vụ..v...v. Tự
do hoá kinh tế cũng có các mức độ khác nhau, từ giảm thuế quan đến
xoá bỏ thuế quan; từ tự do hoá thương mại đến tự do hoá về hàng
hoá và dịch vụ, từ tự do hoá về kinh tế trong quan hệ đôi bên đến
nhiều bên, trong quan hệ khu vực đến toàn cầu. Hội nhập kinh tế
cũng vậy, cũng có những thứ bậc cao thấp khác nhau, song các quốc
gia dù muốn hay không dần dần đều phải hội nhập vào các tổ chức
kinh tế khu vực và toàn cầu, cần phải có chiến lược và có chính sách
để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá”1
Cùng với sự phát triển không ngừng của toàn cầu hoá, sự dựa
vào nhau, tác động và ảnh lẫn nhau của kinh tế các nước ngày càng
sâu sắc, trách nhiệm của chính phủ các nước đối với sự phát triển
kinh tế toàn cầu ngày càng lớn, các nước phát triển trên cơ sở tinh
thần cùng gánh chịu trách nhiệm và sự rủi ro (nếu có) để tiến hành
hợp tác, phối hợp quốc tế rộng rãi và hiệu quả thiết thực. Cùng với
xu thế này các nước đang phát triển cần phải áp dụng các chính sách
có hiệu quả trong việc tham gia vào quá trình toàn cầu hoá. Nói cách
khác, cần tiến hành sự hợp tác và phát triển sao cho có thể thu được
lợi ích tối đa và thiệt hại ở mức thấp nhất.
Một trong những mốc đánh dấu tiến trình toàn cầu hoá kinh tế
tăng nhanh là sự luân chuyển nhanh chóng tiền vốn với quy mô ngày
càng lớn. Nguồn vốn với quy mô lớn với tốc độ luân chuyển nhanh
đã trở thành một lĩnh vực mạo hiểm và sôi động nhất của kinh tế thế
Võ Đại Lược - Toàn cầu hoá. Những tác động và đối sách của Việt Nam, Kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương, số 1(22), 3-1999, trang 3.
1
-18-
giới hiện nay. “Theo số liệu thống kê, mỗi ngày mức giao dịch ngoại
hối trên phạm vi toàn cầu đạt 1500 tỷ đô la Mỹ (USD), nếu tính theo
250 ngày làm việc thì một năm mức giao dịch ngoại hối toàn cầu đạt
tớí 375.000 tỉ USD, trong đó, 98% chủ yếu dùng để mua bán có tính
chất đầu tư với nhiều hình thức”.2
Toàn cầu hoá kinh tế đòi hỏi nguồn vốn (một yếu tố quan trọng
của sản xuất ) cũng phải được toàn cầu hoá. Lưu động vốn còn là
biện pháp hữu hiệu nhằm vượt qua hàng rào thuế quan để chiếm lĩnh
thị trường các nước. Tính đến cuối năm 1996, tổng giá trị vốn lưu
động trong thị trường cổ phiếu thế giới là 20.200 tỉ USD, trong đó
tổng giá trị của 70 thị trường cổ phiếu mới thành lập đã chiếm gần
1600 tỉ USD (khoảng 11% tổng số vốn). Nhờ có biện pháp áp dụng
cao trong nghiệp vụ tiền tệ mà tốc độ lưu chuyển vốn toàn cầu đã
được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Từ năm 1980 đến nay, trong khi tốc
độ tăng bình quân hàng năm của mậu dịch thế giới là 5,5 - 6% thì
lượng lưu thông tiền vốn đã tăng bình quân lên 20%/năm. Hiện nay,
kim ngạch trao đổi ngoại tệ hàng ngày lên tới 1200 - 1300 tỉ USD.
Những con số đã chứng tỏ sức sống của toàn cầu hoá kinh tế, mặt
khác cũng phản ánh kinh tế đang mở rộng theo cơ cấu tiền tệ tăng
lên. Chính vì thế những rủi ro liên quan đến tiền tệ cũng ngày càng
gia tăng đòi hỏi công tác quản lý và giám sát thị trường ngày càng
phải chặt chẽ.
Một trong những lực lượng chủ yếu thúc đẩy sự phân công
quốc tế và quá trình toàn cầu hoá là các công ty xuyên quốc gia thực
hiện phương châm lấy thế giới làm nhà máy và lấy các nước làm
phân xưởng của mình nhằm thông qua phân công quốc tế để lợi dụng
ưu thế về kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của các nước,
thúc đẩy quốc tế hoá sản xuất nhanh chóng. Tổng giá trị sản xuất của
những công ty xuyên quốc gia chiếm tới 40% GDP của thế giới, tổng
kim ngạch mậu dịch chiếm 50% giá trị mậu dịch của thế giới và tổng
2
Toàn cầu hoá kinh tế và đối sách của các nước đang phát triển, Tạp chí tri thức thế giới, số 16,1999.
3. Bùng nổ nguồn vốn đầu tư, Báo Đầu tư, số 513, ngày 17-1-2000.
-19-
vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chiếm tới 90% đầu tư trực tiếp của
thế giới. Hơn nữa, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty
xuyên quốc gia chủ yếu là đầu tư qua lại lẫn nhau. Theo số liệu thống
kê, 82% đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty ở 29 nước
thành viên thuộc tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế là đầu tư lẫn
nhau giữa các nước. Năm 1999, tổng vốn đầu tư nước ngoài trên toàn
thế giới đã lên tới 648 tỉ USD, tăng 34,6% so với năm 1998 và gấp
rưỡi so với 1997. Trong đó, các công ty xuyên quốc gia là đầu tư ra
nước ngoài lớn nhất, đã rót vào các nền kinh tế khoảng 441 tỉ USD
và các nước dang phát triển 165 tỉ USD. 3 Đánh giá về tình hình kinh
tế trên thế giới năm 1999, phần đông các nhà phân tích kinh tế cho
rằng, các công ty xuyên quốc gia hiện chiếm một lượng nguồn vốn
đầu tư vào các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước Châu Á.
Điều này cho thấy, các nước đang và sẽ phụ thuộc nhiều vào các
công ty xuyên quốc gia.
Sự phụ thuộc này vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực,
bởi vì nó vừa hỗ trợ các nước đang phát triển, vừa buộc các nước đi
theo hướng do các công ty xuyên quốc gia đưa ra. Theo phân loại
của ngân hàng thế giới, trong số 25 quốc gia và vùng kinh tế có môi
trường đầu tư hấp dẫn nhất trong năm 1999 thì có tới 10 quốc gia và
vùng lãnh thổ các nước phát triển và đang phát triển châu Á như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Hồng Kông,
Singapo, Philippin, Đài Loan và Malaixia.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ, nhiều nền kinh tế châu
Á đã lấy lại niềm tin của các nhà đầu tư trong đó, Nhật Bản là một
trường hợp điển hình. Trong quý III năm1999, Nhật Bản đã thu hút
hơn 10 tỉ USD đầu tư nước ngoài. Đây được coi là một mức vốn đầu
tư cao nhất trong một quý kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Đối
với các nước ASEAN sau khi giảm xuống mức thấp khoảng 17 tỉ
USD vào năm 1998, năm 1999, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào các nước ASEAN đã tăng lên đáng kể. Theo dự báo của
công ty tư vấn quốc tế (PERG) PERG dự tính, từ nay đến năm 2005,
khu vực Đông Bắc Á và ASEAN cần khoảng 1500 tỉ USD đầu tư
-20-
- Xem thêm -