MỤC LỤC
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 4
2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN 5
3. CƠ SỞ SINH HỌC CỦA BỨC XẠ ION HÓA 5
3.1. Đối với tế bào 5
3.2. Đối với tổ chức 7
4. CÁC PHƯƠNG PHÁP XẠ TRỊ 8
4.1. Các phương pháp xạ trị vào đầu thế kỷ 20 8
4.2. Những phương pháp chiếu xạ hiện đại hơn 9
4.2.1. Máy Betatron 9
4.2.2. Máy xạ trị Cobalt-60 9
4.2.3. Gamma knife và xạ phẫu định vị 10
4.2.3.1. Ứng dụng của gamma knife trong điều trị ung thư 11
4.2.4. Xạ trị 3 chiều theo hình dạng khối u (3-D CRT) 12
MÁY GIA TỐC TUYẾN TÍNH 12
KỸ THUẬT XẠ TRỊ 3D-CRT TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ 14
4.2.5. Xạ trị điều biến liều IMRT 15
4.2.6. Xạ trị proton 18
4.2.7. Xạ trị bằng nguồn phóng xạ kín (xạ trị áp sát) 20
4.2.8. Tia xạ chuyển hóa, kết hợp chọn lọc 23
5. KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………25
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho con người trên toàn cầu. Hiện nay, việc phòng chống ung thư đi vào ba hướng chính: Phòng bệnh, phát hiện sớm và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào điều trị ung thư. Việc điều trị ung thư căn cứ vào nhiều yếu tố như cơ quan, vị trí bị ung thư, thểgiải phẫu bệnh lý, giai đoạn bệnh, cũng như tình trạng chung của bệnh nhân. Phát hiện sớm cũng như chẩn đoán đúng giai đoạn bệnh có ý nghĩa tiên quyết trong việc quyết định phương pháp điều trị để đem lại hiệu quả cao cho người bệnh.
Trên Thế Giới, theo số liệu của Tổ chức ung thư Mỹ công bố thì năm 2007 có khoảng 7,6 triệu người chết do bệnh ung thư. Ngoài ra còn có 12 triệu người mang trong người căn bệnh ung thư trên toàn Thế Giới. Còn theo Tổ chức kiểm soát ung thư Thế Giới thì trong năm 2005, tỉ lệ người chết do bệnh ung thư là 13% trong tổng số 58 triệu người chết trên Thế Giới. Trong đó khoảng hơn 70% số người chết vì bệnh ung thư xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Theo ước tính thì số người chết vì ung thư sẽ tiếp tục tăng khoảng 11,4 triệu người trong năm 2030 [1].
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của GS.Nguyễn Bá Đức thì ung thư vẫn là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, mỗi năm có khoảng 150.000 người mắc bệnh ung thư mới và khoảng 75.000 người tử vong vì bệnh này. Tính đến năm 2010 số người mắc bệnh là 200.000 và tử vong là 100.000 người [1].
Việc điều trị ung thư bằng tia xạ đã có một quá trình lịch sử rất lâu dài có thểnói từ năm 1895, khi Roentgen phát hiện ra tia X và tới ngày 27 tháng 10 năm1951 bệnh nhân đầu tiên trên thế giới được điều trị bằng tia gamma Coban-60.
Ngay từ những năm 1960 bệnh viện Ung Thư Trung Ương (bệnhviện K Hà Nội) đã dùng máy Coban, các nguồn radium vào trong xạ trị. Bên cạnhđó, một số cơ sở y tế khác như bệnh viện Bạch Mai – Hà Nội, bệnh viện Chợ Rẫy –Thành Phố Hồ Chí Minh, Viện Quân Y 103 đã sử dụng các đồng vị phóng xạ trongđiều trị ung thư. Máy gia tốc được đưa vào Việt Nam từ tháng 1 năm 2001 tạiBệnh Viện K – Hà Nội. Hiện nay ngoài bệnh viện K – Hà Nội, ở nước ta đã cónhiều bệnh viện khác cũng đã sử dụng máy gia tốc trong xạ trị như Bệnh việnBạch Mai, bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Ung bướu Trung ương, … Phương phápxạ trị từ xa dùng máy gia tốc hiện đang có xu hướng phát triển ở nước ta. Tuynhiên số lượng máy còn quá ít so với yêu cầu thực tế.
Những tiến bộ trong xạ trị đã đem lại kết quả điều trị tốt hơn và ít biến chứng hơn. Hiện nay 70% bệnh nhân ung thư được điều trị tia xạ như một phần trong liệu trình điều trị ung thư.
Chính vì vậy tôi tiến hành chuyên đề này với mục tiêu: “Cập nhật tiến bộ của xạ trị trong điều trị ung thư”
2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
• Tháng 11/1895 Nhà vật lý học Wilhem Conrad Rontgen phát minh ra tia X.
• Tháng 3/1896 Nhà vật lý học Henri Becquerel tìm ra sự phóng xạ từ quặng Uranium.
• Tháng 7/1898 ông bà Pierre và Marie Curie phân lập được chất phóng xạ Radium ra khỏi quặng phóng xạ thiên nhiên Uranium.
• Đầu thế kỷ 20: Tia X và tia phóng xạ được ứng dụng vào chẩn đoán và điều trị. Sau một thời gian ứng dụng vào điều trị thử một số loại bệnh, người ta sớm nhận thấy chỉ có bệnh lý tăng sinh tế bào là đáp ứng với tia X và tia phóng xạ mà thôi. Từ đó chỉ định xạ trị khu trú dần vào lĩnh vực ung thư .
3. CƠ SỞ SINH HỌC CỦA BỨC XẠ ION HÓA [ 2 ]
3.1. Đối với tế bào
Tác dụng trực tiếp (chiếm 20%): Xạ trị sẽ tác động ngay đến các chuỗi AND của tế bào, làm cho chuỗi nhiễm sắc thể này bị tổn thương. Đa số các trường hợp, tổn thương được hàn gắn và tế bào hồi phục bình thường, không để lại hậu quả. Một số trường hợp gây nên tình trạng sai lạc nhiễm sắc thể như: "Gẫy đoạn, đảo đoạn, đứt đoạn ..." từ đó tạo ra các tế bào đột biến,làm biến đổi chức năng tế bào và dẫn tới tế bào bị tiêu diệt. Tần xuất tổn thương phụ thuộc vào cường độ, liều lượng chiếu xạ và thời gian nhiễm xạ.
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI NGUYÊN
BỘ MÔN UNG THƯ
CHUYÊN ĐỀ CẬP NHẬT TIẾN BỘ XẠ TRỊ TRONG
UNG THƯ
HỌC VIÊN : NGUYỄN HỮU QUÝ
LỚP : BÁC SĨ NỘI TRÚ
CHUYÊN NGÀNH : NGOẠI KHOA
KHÓA : 10
THÁI NGUYÊN 2017
2
MỤC LỤC
1. ĐẶT VẤN ĐỀ.....................................................................................................4
2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN...................................................................................5
3. CƠ SỞ SINH HỌC CỦA BỨC XẠ ION HÓA................................................5
3.1. Đối với tế bào...................................................................................................5
3.2. Đối với tổ chức.................................................................................................7
4. CÁC PHƯƠNG PHÁP XẠ TRỊ.......................................................................8
4.1. Các phương pháp xạ trị vào đầu thế kỷ 20.......................................................8
4.2. Những phương pháp chiếu xạ hiện đại hơn.....................................................9
4.2.1. Máy Betatron............................................................................................9
4.2.2. Máy xạ trị Cobalt-60.................................................................................9
4.2.3. Gamma knife và xạ phẫu định vị............................................................10
4.2.3.1. Ứng dụng của gamma knife trong điều trị ung thư...............................11
4.2.4. Xạ trị 3 chiều theo hình dạng khối u (3-D CRT).....................................12
MÁY GIA TỐC TUYẾN TÍNH........................................................................12
KỸ THUẬT XẠ TRỊ 3D-CRT TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ.......................14
4.2.5. Xạ trị điều biến liều IMRT.......................................................................15
4.2.6. Xạ trị proton.............................................................................................18
4.2.7. Xạ trị bằng nguồn phóng xạ kín (xạ trị áp sát)........................................20
4.2.8. Tia xạ chuyển hóa, kết hợp chọn lọc........................................................23
5. KẾT LUẬN.......................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………25
3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AVM: Dị dạng động tĩnh mạch
DNA: Deoxyribonucleic acid
3-D CRT: Xạ trị 3 chiều theo hình dạng khối u
GS: Giáo sư
HDR (high dose rate): Xạ trị liều lượng thấp
IMRT: Xạ trị điều biến liều
LDR (low dose rate): Xạ trị liều lượng cao
MLC: Ống chuẩn trực đa lá
XTAS: Xạ trị áp sát
4
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho con người
trên toàn cầu. Hiện nay, việc phòng chống ung thư đi vào ba hướng chính: Phòng
bệnh, phát hiện sớm và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào điều trị ung thư.
Việc điều trị ung thư căn cứ vào nhiều yếu tố như cơ quan, vị trí bị ung thư, thể giải
phẫu bệnh lý, giai đoạn bệnh, cũng như tình trạng chung của bệnh nhân. Phát hiện
sớm cũng như chẩn đoán đúng giai đoạn bệnh có ý nghĩa tiên quyết trong việc
quyết định phương pháp điều trị để đem lại hiệu quả cao cho người bệnh.
Trên Thế Giới, theo số liệu của Tổ chức ung thư Mỹ công bố thì năm 2007 có
khoảng 7,6 triệu người chết do bệnh ung thư. Ngoài ra còn có 12 triệu người mang
trong người căn bệnh ung thư trên toàn Thế Giới. Còn theo Tổ chức kiểm soát ung
thư Thế Giới thì trong năm 2005, tỉ lệ người chết do bệnh ung thư là 13% trong
tổng số 58 triệu người chết trên Thế Giới. Trong đó khoảng hơn 70% số người chết
vì bệnh ung thư xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Theo ước tính thì
số người chết vì ung thư sẽ tiếp tục tăng khoảng 11,4 triệu người trong năm 2030
[1].
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của GS.Nguyễn Bá Đức thì ung thư vẫn là
nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, mỗi năm có khoảng 150.000 người mắc bệnh
ung thư mới và khoảng 75.000 người tử vong vì bệnh này. Tính đến năm 2010 số
người mắc bệnh là 200.000 và tử vong là 100.000 người [1].
Việc điều trị ung thư bằng tia xạ đã có một quá trình lịch sử rất lâu dài có thể nói
từ năm 1895, khi Roentgen phát hiện ra tia X và tới ngày 27 tháng 10 năm 1951
bệnh nhân đầu tiên trên thế giới được điều trị bằng tia gamma Coban-60.
Ngay từ những năm 1960 bệnh viện Ung Thư Trung Ương (bệnh viện K Hà Nội)
đã dùng máy Coban, các nguồn radium vào trong xạ trị. Bên cạnh đó, một số cơ sở
y tế khác như bệnh viện Bạch Mai – Hà Nội, bệnh viện Chợ Rẫy – Thành Phố Hồ
5
Chí Minh, Viện Quân Y 103 đã sử dụng các đồng vị phóng xạ trong điều trị ung
thư. Máy gia tốc được đưa vào Việt Nam từ tháng 1 năm 2001 tại Bệnh Viện K –
Hà Nội. Hiện nay ngoài bệnh viện K – Hà Nội, ở nước ta đã có nhiều bệnh viện
khác cũng đã sử dụng máy gia tốc trong xạ trị như Bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện
Chợ Rẫy, bệnh viện Ung bướu Trung ương, … Phương pháp xạ trị từ xa dùng máy
gia tốc hiện đang có xu hướng phát triển ở nước ta. Tuy nhiên số lượng máy còn
quá ít so với yêu cầu thực tế.
Những tiến bộ trong xạ trị đã đem lại kết quả điều trị tốt hơn và ít biến chứng
hơn. Hiện nay 70% bệnh nhân ung thư được điều trị tia xạ như một phần trong liệu
trình điều trị ung thư.
Chính vì vậy tôi tiến hành chuyên đề này với mục tiêu: “Cập nhật tiến bộ của xạ
trị trong điều trị ung thư”
2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
Tháng 11/1895 Nhà vật lý học Wilhem Conrad Rontgen phát minh ra tia X.
Tháng 3/1896 Nhà vật lý học Henri Becquerel tìm ra sự phóng xạ từ quặng
Uranium.
Tháng 7/1898 ông bà Pierre và Marie Curie phân lập được chất phóng xạ
Radium ra khỏi quặng phóng xạ thiên nhiên Uranium.
Đầu thế kỷ 20: Tia X và tia phóng xạ được ứng dụng vào chẩn đoán và điều
trị. Sau một thời gian ứng dụng vào điều trị thử một số loại bệnh, người ta
sớm nhận thấy chỉ có bệnh lý tăng sinh tế bào là đáp ứng với tia X và tia
phóng xạ mà thôi. Từ đó chỉ định xạ trị khu trú dần vào lĩnh vực ung thư .
3. CƠ SỞ SINH HỌC CỦA BỨC XẠ ION HÓA [ 2 ]
3.1. Đối với tế bào
Tác dụng trực tiếp (chiếm 20%): Xạ trị sẽ tác động ngay đến các chuỗi AND
của tế bào, làm cho chuỗi nhiễm sắc thể này bị tổn thương. Đa số các trường hợp,
tổn thương được hàn gắn và tế bào hồi phục bình thường, không để lại hậu quả.
6
Một số trường hợp gây nên tình trạng sai lạc nhiễm sắc thể như: "Gẫy đoạn, đảo
đoạn, đứt đoạn ..." từ đó tạo ra các tế bào đột biến, làm biến đổi chức năng tế bào
và dẫn tới tế bào bị tiêu diệt. Tần xuất tổn thương phụ thuộc vào cường độ, liều
lượng chiếu xạ và thời gian nhiễm xạ.
Tác dụng gián tiếp (chiếm 80%): Khi bức xạ tác dụng lên cơ thể chủ yếu gây ra
tác động ion hoá, tạo ra các cặp ion có khả năng phá hoại cấu trúc phân tử của các
tế bào, làm tế bào biến đổi hay bị huỷ diệt. Trên cơ thể con người chủ yếu là nước
(trên 85% là H20). Khi bị chiếu xạ, H20 phân chia thành H+ và 0H- các cặp ion
này tạo thành các cặp bức xạ thứ cấp, tiếp tục phá huỷ tế bào, sự phân chia tế bào
sẽ bị chậm đi hoặc dừng lại. Năng lượng và cường độ của tia bức xạ khi đi qua cơ
thể con người hoặc cơ thể sinh vật bị giảm đi do sự hấp thụ năng lượng của các tế
bào. Sự hấp thụ năng lượng này dẫn tới hiện tượng ion hoá các nguyên tử của vật
chất sống và hậu quả là tế bào sẽ bị phá huỷ. Năng lượng bức xạ càng lớn, số cặp
ion do chúng tạo ra càng nhiều. Thường các hạt mang điện có năng lượng như nhau
thì tạo ra các cặp ion bằng nhau xong tuỳ theo vận tốc của hạt nhanh hay chậm mà
mật độ ion hoá nhiều hay ít. Đối với các hạt như nơtron, ngoài hiện tượng ion hoá,
chúng còn gián tiếp thu được một động năng lớn, nguyên nhân của quá trình này là
khi đi vào cơ thể, nôtron chuyển động chậm lại và sau đó bị các hạt nhân của vật
chất trong cơ thể hấp thụ. Những hạt nhân ấy trở thành những hạt nhân phóng xạ
phát ra tia bêta và gama. Những tia này lại có khả năng gây ra hiện tượng ion hoá
trong một thời gian nhất định. Nước là thành phần chủ yếu trong tế bào. Các phân
tử nước bị ion hoá và kích thích gây ra một loạt các phản ứng khác nhau:
Electron có thể bị các phân tử nước khác hấp thụ để tạo ra ion âm của nước
Các ion
đều không bền và bị phân huỷ ngay sau đó:
7
Kết quả của phản ứng là tạo ra các gốc tự do H* và OH* cùng hai ion bền
H+,OH-; chúng có thể kết hợp với nhau tạo thành phân tử nước hoặc xảy ra một số
các phản ứng khác:
(Đây là gốc tự do peroxy được tạo ra với sự có mặt của O2 ) Các gốc tự do không
có cấu hình của một phân tử bền vững, chúng chính là nguyên nhân gây nên các
phản ứng mạnh và tác động trực tiếp tới các phân tử sinh học như: Protein, Lipid,
DNA… .Từ đó tạo nên những rối loạn về cấu trúc và hoá học ở các phân tử này.
Những rối loạn đó có thể là:
Ngăn cản sự phân chia tế bào
Sai sót của bộ nhiễm sắc thể (DNA)
Tạo ra các đột biến gen
Làm chết tế bào
3.2. Đối với tổ chức
Tổ chức ung thư là một tập hợp gồm nhiều tế bào (u có kích thước 1cm3 =
109 tế bào), sự teo nhỏ tổ chức ung thư sau chiếu xạ là kết quả quá trình làm chết
tế bào. Quá trình này xảy ra nhanh chứng tỏ tổ chức ung thư đó nhạy cảm với tia
xạ và ngược lại. Mặt khác người ta thấy có một số yếu tố có ảnh hưởng đến mức độ
nhạy cảm của tế bào và của tổ chức ung thư đối với tia xạ. Việc cung cấp oxy tốt sẽ
làm tăng độ nhạy cảm của tế bào với tia xạ. Thực tế lâm sàng cho thấy những tổ
chức nào được tưới máu tốt, giầu oxy thì nhậy cảm với tia hơn là những tổ chức
8
được tưới máu kém. (Thames và cộng sự cho thấynhững tế bào đựơc cung cấp đầy
đủ ôxy thì độ nhậy cảm phóng xạ tăng gấp 3 lần). Với kỹ thuật xạ trị chia nhỏ liều,
những tế bào được cung cấp đầy đủ ôxy khi bị chết sẽ để lại một lượng máu (vốn
của nó) cung cấp cho các tế bào thiếu ôxy trước đó. Bằng cách này quần thể các tế
bào được cung cấp ôxy tốt hơn, do đó sẽ nhạy cảm với tia xạ hơn. Một số nghiên
cứu đã áp dụng phương pháp điều trị cho bệnh nhân ở trong phòng có hàm lượng
ôxy cao áp nhằm tăng sự cung cấp ôxy cho tổ chức do vậy làm tăng mức độ nhạy
cảm của khối u với tia xạ. Mức độ biệt hoá của tế bào ung thư cũng có vai trò to lớn
quyết định sự đáp ứng của tổ chức ung thư với tia xạ. Người ta thấy rằng các tế bào
càng kém biệt hoá thì thời gian phân bào càng ngắn, tốc độ phân chia tế bào nhanh
do vậy nhậy cảm với tia xạ hơn (ví dụ: u lympho ác tính, séminome, ung thư vòm
mũi họng loại không biệt hoá...) ngược lại các tổ chức mà tế bào ung thư thuộc loại
biệt hoá cao, tế bào phân chia chậm thì rất trơ với tia xạ (Schwannome malin, ung
thư tuyến giáp trạng).
4. CÁC PHƯƠNG PHÁP XẠ TRỊ [3]
4.1. Các phương pháp xạ trị vào đầu thế kỷ 20
Một phương pháp xạ trị đầu tiên và máy xạ cũng là phổ biến cho đến hiện
nay là chiếu xạ ngoài.Thời kì đầu thế kỷ 20, kỹ thuật chiếu xạ chủ yếu là dùng
những nguồn radium hoặc ống phát tia X với catod lạnh. Cách chữa trị đầu tiên này
được ghi nhận là thành công lần đầu ở Anh và Nga. Nhưng hạn chế của kỹ thuật
này vào thời đó là suất liều của chúng thấp và hiệu quả không cao do liều lượng
cũng chỉ đạt được ở bề mặt da. Vào năm 1913, William Coolidge đã cải tiến ống
phát tia X bằng cách dùng catod sợi đốt thay thế cho catod lạnh nên đã cho công
suất cao hơn (140 KV vào lúc mới tạo ra đến 300KV vào năm 1920). Đặc điểm của
loại ống này là có thể tạo suất liều theo cường độ dòng catod hoặc điện thế áp vào
ống. Tuy vậy nó cũng không khắc phục được nhược điểm liều lượng chỉ đạt ở bề
mặt. Để khắc phục nhược điểm trên, lúc đó có một phương pháp chiếu xạ khác là
9
dùng radium cho vào các ống nhỏ bằng kim loại hoặc các mảnh kính được ép chặt.
Sau đó, chúng được đưa vào trong khối u hoặc vùng cần chiếu xạ. Ngoài ra còn
một cách khác là dùng muối radium pha loãng tiêm vào vùng bệnh. Đây được xem
là những phương pháp điều trị “xạ trị áp sát” đầu tiên.
Nói chung những vấn đề của các phương pháp xạ trị ban đầu là làm sao đạt được
suất liều tối ưu ở vùng bệnh sâu trong cơ thể một cách chính xác mà không gây
nguy hại cho các mô xung quanh và giảm thời gian điều trị.
4.2. Những phương pháp chiếu xạ hiện đại hơn
4.2.1. Máy Betatron
Cuối thập niên 1930, Donald Kerst đã phát minh ra máy betatron có thể tạo
ra những nguồn electton có năng lượng hàng triệu volt. Nó gồm một cuộn dây sơ
cấp quấn quanh một nam châm điện lớn có một dòng điện xoay chiều với tần số
100Hz để gia tốc dòng electron chạy trong một ống thuỷ tinh hình vòng xuyến
được hút chân không [3]. Chúng có thể tạo được các chùm tia năng lượng đạt tới
vài triệu volt do các electron chuyển động trong vòng tròn và phát năng lượng theo
chu kỳ (bức xạ tắt dần). Máy betatron là loại máy xạ trị năng lượng cao đầu tiên.
Tuy nhiên chúng rất thô và cồng kềnh và vẫn cho suất liều thấp dù tạo ra chùm tia
X năng lượng cao cho nên trường chiếu của chúng chỉ có thể làm phẳng bởi các bộ
lọc kích thước nhỏ. Máy betatron cũng không thể sửa đổi thành máy quay có cấu
hình đồng tâm được nên đến đầu những năm 1990, chúng cũng ngừng hoạt động.
4.2.2. Máy xạ trị Cobalt-60
Ngoài việc sử dụng các máy gia tốc làm nguồn xạ trị, người ta có thể sử
dụng các nguồn đồng vị phóng xạ như Iridium-192, Caesium-137 và Cobalt-60.
Máy xạ trị nguồn Cobalt-60 đã được sản xuất trong máy gia tốc cyclotron vào đầu
năm 1940 ở Anh bởi đề xuất của Mitchell để thay thế nguồn radium (vốn không
hiệu quả trong điều trị) và đã trở nên phổ biến vào những năm 1950. Máy xạ trị
10
Cobalt-60 chủ yếu dùng nguồn phóng xạ Cobalt-60 đặt trong một ống xi lanh được
bao bọc trong một lớp vỏ kim loại. Nguồn được đặt trong một lớp vỏ kim loại bảo
vệ và che chắn phóng xạ với một thiết bị dẫn nguồn tới ống chuẩn trực để phát tia
gamma lâm sàng. Nguồn phóng xạ Cobalt-60 chủ yếu tạo ra các tia gamma có mức
năng lượng 1,17 MeV; 1,33 MeV và trong quá trình tương tác chúng lại tạo ra các
bức xạ electron thứ cấp có phổ năng lượng rộng tương đương với tia X bức xạ hãm
trong máy gia tốc 2,8 triệu volt. Do Cobalt-60 có hoạt độ riêng tương đối cao nên
có khả năng tạo suất liều cao hơn máy betatron và cũng thích hợp cho kỹ thuật
chiếu đồng tâm.
Nhược điểm của nó là cường độ không đủ mạnh để có thể làm phẳng chùm
tia dẫn đến không thể tạo được độ đồng dạng tốt về liều lượng; chu kì bán huỷ là
5,3 năm nên suất liều hằng tháng giảm đi 1%; độ đâm xuyên thấp và liều trên bề
mặt da cao. Cho nên đến năm 1970, người ta dần thay thế chúng bằng các máy xạ
trị gia tốc.
Hiện nay Cobalt 60 thường được dùng làm nguồn phát tia xạ trong xạ trị áp
sát, dùng cho các loại thiết bị HDR (high dose rate) và cả LDR (low dose rate).
4.2.3. Gamma knife và xạ phẫu định vị
Là một thiết bị phân bố theo mạng hình cầu sao cho các nguồn trên đó hội tụ
tại một điểm để tiêu diệt các khối u cũng như các tổ chức ung thư kín nằm ở vị trí
khó phẫu thuật hay không thể phẫu thuật. Bằng công nghệ tạo ảnh kỹ thuật cao có
thể xác định chính xác vị trí của tổ chức cần tiêu diệt từ đó chiếu xạ theo các hướng
khác nhau vào vị trí khối u cùng một lúc với một liều lượng nhất định nằm trong
giới hạn chịu đựng của các mô mềm xung quanh để tiêu diệt hoàn toàn khối u. Việc
điều trị bằng thiết bị này được gọi là “xạ phẫu định vị”.
11
4.2.3.1. Ứng dụng của gamma knife trong điều trị ung thư
Kỹ thuật xạ phẫu Gamma Knife thường được ứng dụng để xạ phẫu stereotactic các
loại tổn thương như sau:
Các khối u di căn vào não: Những khối u này điều trị bằng dao gamma có
hiệu quả rất tốt, nhiều công trình cho thấy kết quả tốt thu được trên 90%.
U màng não ở các vị trí khác nhau đặc biệt là vùng không can thiệp được
bằng phẫu thuật, hoặc phẫu thuật gây ra nhiều biến chứng như: U ở vùng
rãnh trượt (Cluvis), u góc cầu tiểu não, u gần các mạch máu lớn, u ở một
phần ba trong cánh nhỏ xương bướm.
U thần kinh đệm độ I, II, III.
U tuyến yên, đặc biệt là những khối u xâm lấn vào tổ chức xung quanh như
động mạch cảnh, xoang tĩnh mạch, mổ hở không lấy được hết u.
U sọ hầu thể đặc.
U vùng tuyến tùng như: u tế bào mầm, u màng não, u thần kinh đệm.
U dây thần kinh số V.
U dây thần kinh số VIII, u dây thần kinh hỗn hợp. Đây là chỉ định điều trị rất
tốt, tránh được tổn thương dây thần kinh mặt – ưu điểm nổi bật so với mổ
mở (theo nhiều thống kê, khi mổ mở trên 90% bệnh nhân bị liệt cơ mặt).
Hiện nay, ở Hoa Kỳ, nếu khối u dây VIII lớn, các phẫu thuật viên thần kinh
thường mổ lấy u trong bao sau đó điều trị bằng dao gamma tiểu diệt khối u
còn lại, như vậy sẽ tránh được liệt mặt.
Điều trị đau dây thần kinh số V: 100% bệnh nhân có kết quả giảm đau rõ rệt.
Các tổn thương gây động kinh.
Các khối u máu thể hang (caveroma) đặc biệt là các vùng sâu, phẫu thuật gây
nguy hiểm tính mạng hay rối loạn thần kinh như ở thân não, cuống não, vùng
thái dương sâu.
Các dị dạng động tĩnh mạch (AVM) có kích thước vừa và nhỏ. Tia gamma sẽ
làm xơ teo các mạch máu trong khối u mà không làm tổn hại tới các tổ chức
não lành xung quanh so với mổ mở.
12
Theo thống kê ở Mỹ, dao Gamma được chỉ định điều trị cho 36% các khối u
trong sọ, 35% cho dị dạng động tĩnh mạch và 2% cho các động kinh và đau. Như
vậy chỉ định dùng dao gamma khá rộng rãi nhưng cũng có những hạn chế nhất định
về kích thước mô bệnh.
Ưu điểm của xạ trị gamma knife
Loại bỏ tổ chức bệnh lý trong não mà không cần phẫu thuật mở hộp sọ.
Bệnh nhân không phải phẫu thuật mổ mở, thời gian nằm viện ngắn hơn.
Hầu như không có biến chứng nặng.
Chi phí điều trị giảm 30-70%.
Nhờ những tiến bộ của kỹ thuật cơ khí chính xác và tự động hoá, các nguồn
xạ quay được nên quy trình điều trị đạt độ chính xác cao, thao tác đơn giản
và an toàn.
Ảnh hưởng đến các tổ chức lành rất nhỏ.
Không đòi hỏi phải bất động sau điều trị lâu như trong phẫu thuật mở.
Kích thước khối u điều trị tối đa đạt tới 5 cm hơn hẳn các thế hệ cũ (3 cm).
Đặc biệt hiệu quả với các bệnh lý như dị dạng mạch máu não, dùng dao
Gamma Quay, bệnh nhân không phải nút mạch và có thể được điều trị triệt
để…
4.2.4. Xạ trị 3 chiều theo hình dạng khối u (3-D CRT)
MÁY GIA TỐC TUYẾN TÍNH
Việc ứng dụng của tia X vào điều trị ung thư nông ngày càng phong phú.
Trong đó là các máy phát tia X 150 kV và 300 kV được sử dụng rất hiệu quả lần
lượt cho điều trị ung thư da và cho sự làm giảm bớt các triệu trứng tạm thời. Tuy
nhiên tính chất vật lý của tia này không đáp ứng được các yêu cầu điều trị các khối
u sâu bên trong. Việc nghiên cứu chùm bức xạ với mức năng lượng cao hơn, đồng
nghĩa với khả năng đâm xuyên lớn hơn, đã dẫn đến sự phát triển của máy xạ trị
cobalt-60. Tuy nhiên tính chất vật lý của chùm tia gamma này vẫn còn có một số
mặt hạn chế việc điều trị các khối u sâu bên trong như: Liều ở bề mặt tương đối
lớn và điều trị kém hiệu quả với các khối u nằm sâu trong da. Vì vậy người ta phải
13
sử dụng máy gia tốc trong xạ trị ung thư và sự ra đời máy gia tốc đã tạo ra bước
ngoặt lớn trong điều trị ung thư.
Những hạn chế của máy xạ trị cobalt trong điều trị Máy xạ trị cobalt là loại
máy sử dụng chùm bức xạ gamma phát ra do sự phân rã của đồng vị phóng xạ
60Co để điều trị. Đối với những khối u rất nông, nằm rất gần bề mằt da, khi điều trị
bằng máy cobalt, liều hấp thụ cực đại nằm ở độ sâu sâu hơn vị trí của khối u. Như
vậy, khi điều trị các khối u nông bằng máy cobalt thì liều không tập trung vào khối
u, và ảnh hưởng lớn đến những vùng mô lành nằm sâu trong da. Để khắc phục điều
này, nếu điều trị bằng máy cobalt thì người ta phải sử dụng thêm một dụng cụ, gọi
là dụng cụ bù trừ. Dụng cụ bù trừ có tác dụng đưa vùng liều hấp thụ cực đại về gần
bề mặt da hơn, như vậy sẽ tập trung được liều vào những khối u nằm rất gần bề mặt
da. Tuy nhiên, việc sử dụng dụng cụ bù trừ này cũng tương đối bất tiện. Để khắc
phục hoàn toàn những nhược điểm này, khi điều trị những khối u nông, người ta sử
dụng chùm bức xạ electron. Bởi vì các chùm tia electron mất năng lượng ở gần bề
mặt da và cường độ chùm tia suy giảm nhanh chóng và sẽ mất hẳn ở độ sâu 5 cm.
Điều này khiến những vùng lành ít bị tổn thương hơn. Không chỉ không phù hợp
cho những khối u rất nông, máy Co-60 cũng không thể đáp ứng được với những
khối u nằm sâu trong cơ thể.
Ví dụ : Một khối u nằm giữa phổi, cách bề mặt da trung bình 8 cm, liều xạ của máy
cobalt khi vào đến đây lại quá thấp bởi. Để giúp cho việc điều trị trong trường hợp
này đạt hiệu quả tốt hơn, cần phải có chùm bức xạ photon có mức năng lượng cao,
để đưa vùng liều cực đại sâu hơn vào cơ thể.
Như vậy, để điều trị ung thư linh hoạt với những khối u ở những vị trí khác
nhau trong cơ thể đòi phải có những chùm bức xạ khác nhau như electron và
photon, đồng thời với điều đó là với mỗi loại bức xạ phải có nhiều mức năng
lượng. Sự đa dạng và linh động này giúp cho ta có thể điều trị được tất cả các khối
14
u ở bất cứ vị trí nào. Máy gia tốc ra đời hoàn toàn có thể đáp ứng được những đòi
hỏi này. Ngoài ra, sử dụng máy gia tốc trong xạ trị còn có những lợi thế nổi trội:
Máy gia tốc an toàn hơn nhiều vì nó ngừng phát tia khi tắt máy, còn ở máy cobalt
thì đồng vị phóng xạ vẫn phân rã liên tục và phát tia khi không còn cần đến. Máy
Co-60 đòi hỏi phải thay nguồn định kỳ do phân rã phóng xạ. Nguồn cũ bỏ ra cần xử
lý để đảm bảo an toàn bức xạ để không gây ô nhiễm môi trường. Đặc biệt suất liều
bức xạ của máy gia tốc cao hơn nguồn cobalt (thường gấp 2-3 lần).
KỸ THUẬT XẠ TRỊ 3D-CRT TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ
Những tiến bộ trong công nghệ máy tính đã làm tăng khả năng quá độ từ lập
kế hoạch và thực thi kỹ thuật phân bố liều theo 2-D cho đến kỹ thuật phức tạp hơn,
hiện đại hơn đó là phân bố liều theo không gian 3 chiều, phù hợp với hình dạng
khối u (3D-CRT). 3D-CRT là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả kỹ thuật phác
thảo và thực hiện một kế hoạch xạ trị được dựa trên các dữ liệu từ phim CT theo ba
chiều cùng các trường chiếu được tạo theo hình dạng riêng biệt phù hợp khối u.
Kỹ thuật xạ trị 3D-CRT là một trong các kỹ thuật xạ trị ngoài. So với kỹ
thuật xạ trị thông thường 2D trước đây, các chùm tia được phát ra chỉ có dạng hình
chữ nhật hoặc hình vuông, thì kỹ thuật 3D-CRT ưu việt hơn rất nhiều. Với sự có
mặt của các tấm che chắn chì, ống chuẩn trực đa lá MLC, chùm bức xạ phát ra có
thể được điều chỉnh với hình dạng bất kỳ để có thể bao khít khối u theo từng hướng
chiếu.
Mục đích của xạ trị 3D-CRT là tạo được một vùng phân bố liều hấp thụ cao
tại thể tích bia và do đó giảm liều có hại cho các tổ chức lành xung quanh, qua đó
sẽ làm giảm thiểu các hiệu ứng phụ hoặc biến chứng muộn, tăng xác suất kiểm soát
khối u và cải thiện kết quả điều trị. Để thực hiện được điều này, bệnh nhân cần phải
trải qua một quá trình mô phỏng và lập kế hạch điều trị.
Tuy nhiên, kỹ thuật này có một vài hạn chế như sau:
15
Gây hiện tượng cháy da cho bệnh nhận.
Chi phí cho việc cắt xốp làm khuôn chì, đúc chì khá tốn kém và độc hại,
nguyên hiểm.
Mất thời gian tháo lắp phụ kiện che chắn cho bệnh nhân với từng trường
chiếu: Khối chì che chắn, lọc nêm.
Với những ca ung thư phức tạp, khối u có hình dạng phức tạp và nằm ngày
cạnh các cơ quan nguy cấp cần bảo vệ thì với kỹ thuật 3D-CRT khó có thể
đưa ra được một phân bố liều tối ưu. Để khắc phục những hạn chế trên,
người ta đưa ra một kỹ thuật xạ trị mới. Đó là kỹ thuật xạ trị điều biến cường
độ (IMRT)
4.2.5. Xạ trị điều biến liều IMRT
Với kỹ thuật này thông lượng bức xạ 2-D được điều biến theo hình dạng khối
u trong khi thân máy cố định dựa trên hệ MLC. Do sự khác nhau giữa khoảng cách
từ mặt da đến khối u cũng như độ sâu của khối u với khoảng cách từ nguồn đến da,
người ta đã sử dụng một loại dụng cụ bù trừ mô (loại dụng cụ này có nhiều tấm hấp
thụ nhỏ có độ dày khác nhau) hoặc máy cắt khuôn bù trừ. Vì việc sử dụng những
dụng cụ bù trừ và máy cắt khuôn rất mất thời gian nên đã xuất hiện ý tưởng tinh
sửa chùm tia. Kỹ thuật này là điều biến chùm tia theo từ 2-D thành 3-D để liều
lượng được giới hạn theo đúng kích thước hình thể khối u [2].
Cơ sở để triển khai kĩ thuật IMRT:
Có thể coi kĩ thuật xạ trị IMRT như là một bước phát triển tiếp theo của kĩ thuật xạ
trị 3D-CRT. Về mặt nguyên lí, kĩ thuật IMRT xuất phát với các trường chiếu như
3D-CRT nghĩa là kiểm soát phân bố liều theo ba chiều nhưng sự phân bố đó không
đều nhau. Nói đúng hơn, tuỳ theo mật độ dày mỏng của khối u mà liều chiếu tại
khu vực đó cao hay thấp (nghĩa là các liều chiếu trên toàn khối u không đều nhau
mà điều biến theo khối u).
16
Kỹ thuật xạ trị 3D-CRT gồm các hướng chiếu, mỗi hướng chiếu được che
chắn sao cho tránh được cơ quan bảo vệ và không làm che khuất khối u. Kỹ thuật
xạ trị IMRT được phát triển từ kỹ thuật 3D-CRT, kỹ thuật này có thêm một bậc tự
do nữa là sự điều biến cường độ chùm tia để lập kế hoạch điều trị. Chính vì thế, kỹ
thuật này tạo ra phân bố liều tốt hơn.
Do đó, các cơ quan cần bảo vệ nhận một liều tương đương với liều mà khối u nhận
được. Nhưng với kỹ thuật IMRT thì vùng liều cao bao khít theo hình dạng khối u
và tránh được tủy sống. Kỹ thuật 3D-CRT khó có thể làm được điều này. Sự phân
bố liều lượng theo độ dày mỏng của thể tích khối u đã khiến cho IMRT có thể điều
trị được các khối u mà có thể đã được coi là không thể chữa được trong quá khứ do
đóng gần các cơ quan quan trọng (nếu sử dụng 3-D CRT chắc chắn các cơ quan
quan trọng đó sẽ phải chịu tổn hại ít nhiều). Những loại khối u này là:
Ung thư và khối u ở đầu, cổ mà khối u thường nằm gần tuỷ sống, tuyến nước
bọt.
Ung thư ở tuyến tiền liệt nằm gần trực tràng.
Ung thư phổi mà khi chiếu có thể liên quan tới tim, tuỷ sống, hạch trung thất.
Ung thư thực quản, khi chiếu có thể ảnh hưởng tới phổi.
Ung thư tử cung, thường gặp ở phụ nữ, có liên quan tới bàng quang.
Ung thư vú nằm ở nơi gần tim phổi.
Với những loại khối u trên, nếu có thể giảm liều hấp thụ ở mô liền kề và tăng
liều hấp thụ ở khối u ta có thể kiểm soát khối u cũng như giảm thời gian điều trị. Kĩ
thuật này đặc biệt cần thiết khi đối phó với các khối u kháng tia xạ. Tuy nhiên vấn
đề mà kĩ thuật này đang gặp phải là sự rò rỉ tia xạ (do tia xạ được phát ra theo mọi
hướng nên dù đã định hướng thì ít nhiều trong số chúng vẫn đi lệch ra ngoài) khiến
cho nhiều vùng mô lớn nhận một liều thấp có thể làm tăng sự đột biến của các tế
bào lành [2].
Quan điểm của IMRT
17
Như đã nói ở những phần trước, một trong những vấn đề của xạ trị là bảo vệ cơ
quan lành và trọng yếu. Nhưng với phương pháp 3D-CRT, chúng ta chỉ có thể bảo
vệ một phần các cơ quan đó thông qua che chắn, còn với các cơ quan nằm bên dưới
khối u theo trường chiếu thì sao? Với kỹ thuật IMRT, để bảo vệ cơ quan đó, cường
độ sẽ được điều biến sao cho liều lượng bức xạ chỉ tác động vào phần khối u bên
trên trong quá trình lập kế hoạch điều trị. Đó chính là ưu điểm của kĩ thuật này, tạo
ra phân bố liều tốt hơn 3D-CRT.
Hình 2.2: So sánh liều lượng bức xạ giữa 3D-CRT (a) và IMRT (b)
Nhìn hình 2.2, ta có thể thấy với 3D-CRT liều lượng khi chiếu tới khối u là như
nhau kể cả ở gần cơ quan cần bảo vệ. Trong khi với IMRT, hai trường chiếu ở hai
bên thì liều lượng hướng tới nơi cần bảo vệ thấp hơn hẳn liều lượng nơi chỉ có Tổ
chức nguy cấp Tổ chức nguy cấp Thể tích điểu trị Thể tích điểu trị khối u và với
trường chiếu ở trên liều lượng ở phía sẽ đi qua cơ quan lành cũng thấp hơn hẳn so
với hai bên, dù cùng trường chiếu. Như vậy với IMRT ta có thể tăng liều lượng
chiếu để diệt khối u nhưng vẫn bảo vệ được cơ quan trọng yếu.
18
4.2.6. Xạ trị proton
Khái niệm xạ trị proton
Xạ trị proton là kỹ thuật xạ trị nơi mà năng lượng ion hóa hạt proton được hướng
trực tiếp vào khối bướu. Khi proton tương tác với nguyên tử vật liệu môi trường,
điện tích dương của proton gây ra những hiệu ứng ion hóa, cái mà làm thay đổi tính
chất của phân tử trong môi trường đó. Bức xạ ion hóa proton phá hủy nguyên tử
trong tế bào, đặc biệt là ADN hoặc vật liệu di truyền. Dẫn đến sự phân chia và sản
sinh của ADN bị phá hủy. Bởi vì khả năng của những tế bào ung thư tự sửa chữa
thương tổn thấp hơn so với tế bào khỏe vì thế tế bào ung thư bị phá hủy một cách
có chọn lọc từ sự lớn lên giữa những tế bào lành.
Để điều trị các khối u ở độ sâu lớn hơn, máy gia tốc proton phải sản xuất ra
một chum tia có năng lượng cao hơn trong khi để điều trị các khối u gần bề mặt cần
sử dụng năng lượng ít hơn. Điều trị bằng proton có đặc trưng là liều sâu lớn nhất tại
khối u do đó giảm thiểu liều cho mô lành phía trước và phía sau khối u. Vì đỉnh
phổ năng lượng của chùm proton hẹp nên để bao trùm toàn bộ khối u, người ta phải
kết hợp một số chùm tia với mức năng lượng khác nhau bằng cách sử dụng các bộ
lọc đỉnh đặt ở khoảng giữa nguồn proton và bệnh nhân.
Đặc điểm xạ trị proton
Xạ trị ngoài: Một Cyclotron và Synchrotron dùng gia tốc proton sau đó
thông qua một hệ thống dịch chuyển chùm tia proton được đưa tới từng
phòng điều trị riêng rẽ - nơi mà chúng được sử dụng để tiêu diệt tế bào ung
thư.
Xạ trị tại chỗ: Chỉ dùng để điều trị được các khối bướu nằm giới hạn tại một
nơi trong cơ thể. Không phù hợp để điều trị các khối bướu đã di căn, lan rộng
ra các khu vực khác của cơ thể.
Là phương pháp điều trị ung thư không gây đau đớn.
19
Sử dụng các proton từ những nguyên tử Hiđrô cái mà được tách ra sau khi
các electron được di dời.
Những ưu, khuyết điểm của xạ trị proton
3.4.1. Những ưu điểm
Xạ trị proton có những ưu điểm vượt trội so với một số phương pháp khác:
Xạ trị hữu hiệu cho các bướu nằm sâu trong cơ thể.
Liều đặt tại khối bướu lớn nhất, các mô lành xung quanh và tại lối vào ít
bị ảnh hưởng hoặc chịu ảnh hưởng liều xạ thấp (trong khi xạ trị tia X liều
cực đại bỏ lại ngay tại lối vào).
Thời gian xạ ngắn, mỗi lần xạ bệnh nhân chỉ nhận lượng xạ ít. Ví dụ
trong xạ trị ung thư tiền liệt tuyến, xạ trị proton phân phát liều là 20Gy
chia làm 4 phân đoạn, trong khi xạ trị bằng tia X liều dùng là 50Gy chiếu
xạ liên tục 5 lần/tuần.
Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân tốt hơn do ít ảnh hưởng lên mô lành
và ít các tác dụng phụ.
Mặc dù proton là hạt mang nhiều năng lượng, nhưng có thể điều chỉnh mức
năng lượng để ít tổn hại đến mô lành và sự suy giảm liều cũng thuận lợi cho điều trị
bệnh nhân nhi.
Những khuyết điểm
Mặc dù vậy bên cạnh những thuận lợi to lớn mà proton mang lại cho xạ trị, thì tỉ
lệ số bệnh nhân được chữa trị bằng tia xạ proton vẫn còn ít hơn so với các bức xạ
thông thường như tia X vì một số hạn chế của nó.
Chi phí điều trị hiện nay cho một ca điều trị còn khá cao.
Do kỹ thuật phức tạp chỉ có một vài trung tâm điều trị lớn trên thế giới
có khả năng tiến hành.
20
Chi phí xây dựng trung tâm xạ trị proton hiện nay rất cao gồm các khoản
đầu tư cho: xây dựng, vận hành, nhân sự, dụng cụ trong chiếu xạ…..
Trong đó chi phí cho máy gia tốc là tốn kém nhất.
Khu vực điều trị proton phải đủ lớn để có thể đặt máy gia tốc và các
đường dẫn truyền chùm tia.
Một vài tác dụng phụ từ xạ trị proton [13]
Tác dụng phụ do xạ trị proton phụ thuộc vào tuổi, tiền sử y khoa, sự chuẩn đoán,
vị trí và kích cỡ khối bướu. Một vài trường hợp có thể hóa trị liệu kết hợp với xạ
phẫu proton. Có trường hợp nhận liều xạ ít hơn do đó các triệu chứng cũng khác
nhau. Những triệu chứng thường thấy: rụng tóc tạm thời, các phản ứng trên da từ
chiếu xạ trực tiếp và sự mệt mỏi liên quan đến việc điều trị trên diện rộng, buồn
nôn…
4.2.7. Xạ trị bằng nguồn phóng xạ kín (xạ trị áp sát)
Là kỹ thuật điều trị khối u bằng cách đưa một liều phóng xạ rất cục bộ vào
chính xác bên trong khối u. Kỹ thuật này hạn chế tối đa tác hại của phóng xạ tới các
mô lành bao quanh khối u vì thế nó được sử dụng khá thông dụng song nó có
nhược điểm là rất khó áp dụng đối với các khối u có kích thước nhỏ. Trong kỹ thuật
xạ trị bằng nguồn phóng xạ kín thì xạ trị áp sát được sử dụng khá phổ biến (gồm xạ
trị áp sát liều thấp- LDR và xạ trị áp sát liều cao-HDR).
Xạ trị áp sát (XTAS) là phương thức điều trị trong đó nguồn phát bức xạ (nguồn
đồng vị phóng xạ đóng gói) được đặt áp sát hay bên trong khối u. XTAS có thể áp
dụng cho nhiều trường hợp ung thư, nhưng thành công nhất cho phụ khoa và ung
thư đầu và cổ. Ban đầu XTAS được phát triển để điều trị những khối u nằm sâu mà
kỹ thuật xạ trị ngoài trong thời kỳ đầu không mang lại hiệu quả. XTAS trong hốc
rất thích hợp trong điều trị phụ khoa, do có thể đưa nguồn vào qua âm đạo. XTAS
trong kẽ thích hợp cho ung thư đầu và cổ do dễ tiếp cận qua đường miệng và mũi.
- Xem thêm -