Phần 1.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nhừng năm gần đây nền kinh tế Việt Nam phát triển khá nhanh,
cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, ngành nuôi trồng thủy sản đã
có những bước phát triển nhảy vọt và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
quốc gia, không chỉ đóng góp cho sự phát triển của đất nước mà còn góp phần
đáng kể vào sự thành công trong công tác xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh
lương thực, làm thay đổi đời sống dân cư các vùng miền núi và ven biển.
Với sự ưu đãi của thiên nhiên, tỉnh Thừa Thiên Huế có đường bờ biển dài
126 km, với vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai là một trong nhừng đầm phá
nước lợ lớn nhất Đông Nam Á, với chiều dài 70 km, rộng 22 000 ha mặt nước.
Ngoài ra đầm phá Tam Giang –Cầu Hai còn có hệ sinh thái phong phú, đa dạng
với 714 loài thực vật phù du, 37 loài động vật phù du, 54 loài thực vật, 230 loài
cá… do đó Thừa Thiên Huế có tiềm năng lớn để phát triển về đánh bắt và nuôi
trồng thủy sản. Xã Quảng An là một trong 33 xã thuộc khu vực vùng đầm phá
Tam Giang – Cầu Hai.Toàn xã có 130 ha diện tích thả nuôi [1], đây cũng có
nhiều diện tích đất trũng có khả năng chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản, do đó
ngành nuôi trồng thủy sản đang phấn đấu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
xã nhất là nuôi trồng thủy sản nước lợ.
Các đối tượng thủy sản được nuôi phổ biến như tôm sú ,tôm thẻ chân
trắng, tôm rằn… là nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng và mang lại hiệu quả
kinh tế cao, cùng với sự đáp ứng nhu cầu con giống, sự hoàn thiện các quy trình
nuôi và hiệu quả kinh tế cao do nuôi tôm mang lại nên người dân đã đổ xô vào
nuôi chuyên canh tôm một cách ồ ạt. Mặc dù sản lượng nuôi tôm ngày càng
được nâng cao nhưng do chạy theo lợi nhuận, sử dụng hóa chất và thuốc kháng
sinh không đúng quy định, vấn đề xử lí nước không tốt và sự phát triển tràn lan
không theo quy hoạch đã vượt ra ngoài sự kiểm soát của người nuôi và cơ quan
chức năng. Điều đó dẫn tới hậu quả là môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng và
dịch bệnh bùng phát khắp nơi.
Để tìm ra lối thoát cho nghề nuôi trồng thủy sản người ta có xu hướng
nghiên cứu, sử dụng các mô hình nuôi trồng thủy sản xen ghép, là giải pháp hợp
lý đảm bảo sự phát triển bền vững. Việc nuôi ghép tôm sú với các loài ăn mùn
bã hữu cơ, các loài thân mềm hai mảnh vỏ đã góp phần làm giảm lượng hữu cơ
1
trong ao, cải thiện nước, giảm số lượng vi sinh vật, giảm tỷ lệ mắc bệnh, ổn định
sinh thái môi trường, tăng sản lượng [2]. Đối với những hộ nghèo mô hình nuôi
trồng thủy sản xen ghép đã mang lại hiệu quả kinh tế bền vừng, góp phần giúp
người dân trong xã vươn lên thoát nghèo do vốn đầu tư ít và hạn chế đựơc rủi ro
do độc canh, thêm vào đó nuôi xen ghép tận dung được diện tích mặt nước và
không cần sử dụng nhiều hóa chất như nuôi chuyên canh nên đã góp phần cải
thiện ô nhiễm nguồn nước nuôi trồng thủy sản trên địa bàn xã Quảng An, huyện
Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế.
Tuy nhiên trên địa bàn xã xuất hiện nhiều mô hình nuôi xen ghép khác
nhau. Xuất phát từ thực tiễn đó, được sự đồng ý của trường Đại Học Nông Lâm
Huế, Khoa Thủy Sản và thầy giáo hướng dẫn, tôi chọn đề tài “So sánh hiệu quả
kinh tế của một số mô hình nuôi trồng thủy sản xen ghép tại xã Quảng An,
huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế”
Mục đích của nghiên cứu này là xác định hiệu quả kinh tế của các mô
hình nuôi trồng thủy sản xen ghép và xác định được mô hình nuôi phù hợp và có
hiệu quả kinh tế cao cho người dân xã Quảng An.
2
Phần 2.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Các mô hình nuôi trồng thủy sản xen ghép trên thế giơi
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì các hình thức nuôi, các
kỹ thuật mới cũng được áp dụng vào nuôi trồng thủy sản, do đó năng suất và lợi
nhuận không ngừng tăng lên. Tuy nhiên do chỉ chạy theo lợi nhuận trước mắt
dẫn tới phá hủy hệ sinh thái, làm vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trần
trọng, dịch bệnh tràn lan đe dọa sự bền vững của nghề nuôi trồng thủy sản nói
chung và nghề nuôi tôm nói riêng, Đứng trước nguy cơ này, các nhà khoa học,
các nhà sản xuất và các tổ chức quốc tế đã đầu tư cho các công trình nghiên cứu
cơ bản để tìm ra giải pháp, một trong các giải pháp được ứng dụng có hiệu quả
là các mô hình nuôi xen ghép.
Hình thức nuôi quảng canh kết hợp thực chất là mô hình nuôi xen ghép các
đối tượng với nhau. Khái niệm nuôi xen ghép đã được nói đến rất sớm trong nuôi
trồng thủy sản Trung Quốc. Theo Lin’s (1940), nuôi xen ghép là sự kết hợp các loài
vào trong cùng một ao nuôi. Hầu hết những nghiên cứu đầu tiên đều được thực
hiện ở các đối tượng nước ngọt, là sự kết hợp giữa nhiều loài trong họ cá chép [9].
Những năm gần đây, việc nuôi nhiều loài khác nhau mang lai hiệu quả đáng kể về
môi trường sinh thái, tài nguyên và kinh tế. Cơ sở của việc nuôi ghép là các loài
này có cùng điều kiện môi trường sống và không cạnh tranh thức ăn với nhau [16].
Hiện nay trên thế giới người ta đang nuôi thử nghiệm và sử dụng nhiều
mô hình nuôi xen ghép khác nhau. ở Mêxico người ta nuôi ghép tôm và cá rô
phi (Oreochromis mossambicus), Ở Trung Quốc có ba mô hình nuôi xen ghép
thân mềm và rong biển. đó là mô hình: Laminaria japonicas và điệp
(Argopecten irradians hoặc pectin yessoensis),Laminaria japonicas và hàu
(Cassostrea gigas), Laminaria và Undaria ghép với bao ngư, hai lòa rong
Laminaria và Undaria là thức ăn ưa thích của bào ngư, ngược lại chất thải của
bào ngư lại là phân bón rất tốt cho rong biển. Ở Hawaii, việc nuôi xen ghép đã
được thực hiện trong những năm gần đây. Wyban (1982) đã xây dựng mô hình
nuôi mới ở môi trường nước lợ, kết hợp cá đối, cá măng sữa, cá rô phi đỏ và cá
hồi [17]. Bwanthondi và cộng tác viên (1985) với mô hình nuôi một vài loài cá
với hàu bằng hệ thống nuôi giàn bè. Andrea C. Afaro và cộng tác viên (2002)
3
tiến hành nuôi rong biển và vẹm vỏ xanh ở ven biển. Lo-Chai-Chen (1990) đã
tiến hành nuôi ghép cá măng, cá đối. tôm, rong câu trên cùng một ao nuôi ở Đài
Loan. Ngoài ra còn có nhiều mô hình nuôi ghép khác như tôm càng xanh ghép
với cá trôi ấn, cá chép Trung Quốc tại Pakistan [3].
Các nhà nuôi tôm ở Châu Á và Nam Mỹ đều cho rằng sản lượng tôm nuôi
tăng lên trong các hình thức nuôi kết hợp hơn là nuôi đơn canh, với những mô
hình nuôi xen ghép kết hợp hạn chế được lượng thức ăn cũng như chất thải hữu
cơ trong ao nuôi, tỷ lệ sống của tôm nuôi cũng cao hơn, hạn chế được dịch bệnh
xảy ra. Tuy nhiên những thử nghiệm có sự lặp lại cần được thực hiện để khẳng
định các kết quả và hiểu rõ hơn các hệ thống nuôi kết hợp này.
2.2. Tình hình nuôi trồng thủy sản và các mô hình nuôi trồng thủy sản xen
ghép tại Việt Nam
2.2.1.
Tình hình nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam
Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để phát triển nuôi trồng thủy sản với
3200km bờ biển và trên 4000 hòn đảo lớn nhỏ, vùng ven bờ trải dài từ Quảng
Ninh đến Kiên Giang, cùng 10 vạn đầm phá, 11 vịnh nhỏ, khoảng 24 vạn ha
rừng ngập mặn, 29 vạn ha bãi triểu cùng với nguồn lao động dồi dào là điều kiện
thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản lợ và mặn.
Tuy nghề nuôi tôm ở nước ta phát triển muộn nhưng diện tích và năng
suất không ngừng tăng lên rất nhanh, theo những số liệu được ghi chép cho thấy
vào thập kỷ 70 của thế kỷ XX ở Việt Nam đã xuất hiện hình thức nuôi quảng
canh. Lúc này diện tích nuôi tôm ở vùng đồng bằng song Cửu Long đạt khoảng
70.000 ha và ở miền Bắc có diện tích nuôi tôm nước lợ là 15.000 ha, trong
những năm này kỷ thuật sản xuất giống tôm được đẩy mạnh nghiên cứu. Đến
thập kỉ 80, kỷ thuật sản xuất giống tôm nhân tạo được du nhập từ Nhật Bản, Đài
Loan, Thái Lan được cải tiến và áp dụng tại Việt Nam với sự thành công này thì
nguồn giống được chủ động, nghề nuôi tôm lại được phát triển thêm một bước
mới. Thay vì hình thức nuôi quảng canh, thì cuối thập niên 80 lại xuất hiện hình
thức nuôi quảng canh cải tiến (có bổ sung thêm giống). Sang thập kỉ 90, phong
trào nuôi tôm phát triển mạnh. Tuy nhiên hình thức nuôi chủ yếu vẫn là quảng
canh với năng suất bình quân rất thấp. Nhưng giữa những năm 90 nuôi tôm
thương phẩm ngày càng được mở rộng theo hướng tự phát không theo quy
hoạch, cùng với ô nhiễm môi trường đã làm bùng nổ dịch bệnh. Ước tính trong
hai năm 1994-1995 dịch bệnh đã ảnh hưởng tới 85000 ha tôm ở đồng bằng sông
Cửu Long và gây thiệt hại hơn 294 tỷ đồng [8]. Chính dịch bệnh đã làm cho tốc
4
độ mở rộng diện tích nuôi bị giảm xuống. Vài năm sau khi dịch bệnh suy giảm
và cùng với việc Chính Phủ thực hiện nghị quyêt 09 (năm 2000) cho phép
chuyển diện tích đất trồng lúa, làm muối có năng suất thấp, đất hoang hóa sang
nuôi trồng thủy sản thì diện tích nuôi tôm ngày càng được mở rộng,
Bảng 2.1. Diện tích nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam qua 3 năm.
2009-2007
Đơn vị
tính
2007
Diện tích nuôi
trồng thủy sản
ha
999,50
999,75
Diện tích nuôi tôm
ha
515,2
500,1
Chỉ tiêu
2008
2009
+/-
%
1012,1
19,1
1,92
47,4
47,4
9,2
(Nguồn [19])
Cùng với sự mở rộng diện tích nuôi thì sản lượng thủy sản nước ta trong
những năm gần đây cũng không ngừng tăng lên. Theo Tổng cục Thủy sản, tổng
sản lượng thủy sản năm 2012 ước đạt 5,8 triệu tấn, tăng 8,5% so với năm 2011,
trong đó, sản lượng khai thác đạt 2,6 triệu tấn, sản lượng nuôi trồng đạt 3,2 triệu
tấn. Cụ thể, về nuôi trồng, diện tích thả nuôi tôm nước lợ 658 nghìn ha, sản
lượng đạt 500 nghìn tấn (tăng 0,9%). Diện tích nuôi cá tra từ đầu năm đến nay
đạt 5,6 nghìn ha (tăng 1,8%). Diện tích đã thu hoạch là 4,3 nghìn ha. Sản lượng
cá ước đạt 1,19 triệu tấn (tăng 3,4%), năng suất bình quân 274 tấn/ha. Năm
2012, cả nước có 1.529 cơ sở sản xuất giống tôm sú, 185 sơ sở giống tôm chân
trắng, sản xuất được hơn 37 tỷ tôm sú và gần 30 tỷ tôm thẻ giống.
Về khai thác, năm 2012 tổng sản lượng khai thác thủy sản ước đạt 2,6
triệu tấn, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó khai thác hải sản ước
đạt 2,4 triệu tấn (tăng 9,6%). Hiện cả nước có khoảng 3.500 tổ, đội với khoảng
21.500 tàu cá tham gia và 136.000 lao động; thành lập gần 20 nghiệp đoàn đánh
cá.[20]. Năm 2012 nghề khai thác thủy sản cũng có nhiều biến động. Giá xăng
dầu tăng từ ngày 13/8/2012 đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động khai thác trong
tháng. Chi phí ra khơi đánh bắt tăng khiến cho ngư dân tại một số địa phương
không yên tâm khi bám biển sản xuất vì nỗi lo lỗ vốn. Bên cạnh đó, bão trên
biển Đông cũng ảnh hưởng đến hoạt động đánh bắt của các tỉnh miền Bắc và
Trung bộ. Tuy vậy, sản lượng khai thác trong tháng vẫn tăng nhẹ so với cùng kỳ.
Lũy kế 8 tháng đầu năm, sản lượng khai thác vẫn tăng hơn 5% so với cùng kỳ
năm 2011.Đầu tháng, ngư dân từ các tỉnh Đà Nẵng, Phú Yên, Bình Định trúng
đậm khi đánh bắt cá tại khu vực biển Nha Trang do thời tiết thuận lợi. Nhiều tàu
5
cá đánh bắt xa bờ đã lãi lớn sau chuyến bám biển dài ngày tại quần đảo Trường
Sa.Thực hiện Quyết định 48 của Chính phủ, để tạo điều kiện cho ngư dân bám
biển, các tỉnh đang đẩy mạnh chi ngân sách hỗ trợ. Trong tháng, tỉnh Bình
Thuận chi ngân sách hơn 2,6 tỉ đồng để hỗ trợ nhiên liệu cho các tổ chức, cá
nhân hoạt động khai thác và dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa của
huyện Phú Quý đợt 2 năm 2012. Tương tự, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi
cũng đã ký quyết định hỗ trợ kinh phí hơn 13,2 tỉ đồng thực hiện chính sách khai
thác, nuôi trồng hải sản và dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa.
Về xuất khẩu thủy sản Theo nguồn số liệu của Hải quan và tổng hợp của
VASEP, tháng 7/2012, xuất khẩu thủy sản đạt 530 triệu (giảm 1,5% so với cùng
kỳ), đưa tổng giá trị xuất khẩu thủy sản cả nước 7 tháng năm 2012 đạt 3,42 tỷ
USD, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2011. Dự kiến trong tháng 8/2012, kim
ngạch xuất khẩu ước đạt 620 triệu USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu 8 tháng
đầu năm lên 4,04 tỷ USD, tăng 6,51% so với cùng kỳ năm 2011 [20].
2.2.2.
Các mô hình nuôi xen ghép tại Việt Nam
Mô hình nghiên cứu nuôi kết hợp trên biển là một hướng nghiên cứu
mới đang được nhiều nước quan tâm trong đó có Việt Nam.Đây la một giải pháp
hợp lí để nước ta phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững,phù hợp
với khả năng đầu tư của người dân, hạn chế rủi ro và hạn chế ô nhiễm môi
trường do hoạt động nuôi trồng thủy sản gây ra. Gordin và cộng sự (1980),
Folke và Kautski (1992),Quain (1996), là những người đầu tiên đặt nền móng
cho việc nghiên cứu các mô hình nuôi ghép các đối tượng thủy sản lợ mặn.
Gần đây, các mô hình nuôi xen ghép đã được nghiên cứu nhiều hơn. Bùi
Huy Cộng và ctv, (1997) với mô hình lúa cá kết hợp tại Phú Thịnh (Yên Bình,
Yên Bái), Đại Bái (Gia Lương, Bắc Ninh), Yên Chính (Ý Yên, Nam Định). Kết
quả cho thấy, năng suất lúa ở mô hình 2 vụ lúa, 1 vụ cá tăng 8,7 - 12,2% và năng
suất cá đạt 475 - 640kg cá/ha, hiệu quả kinh tế tăng gấp 5 lần so với cấy lúa đơn
thuần. Năng suất lúa ở mô hình 1 vụ lúa và 1 vụ cá tăng 17,3% và năng suất cá
đạt 1.173 - 1.377kg/ha, hiệu quả kinh tế tăng gấp 3 lần so với cấy lúa đơn thuần.
Bên cạnh lợi ích kinh tế, các mô hình này còn góp phần làm sạch môi trường [18].
Trong lĩnh vực mặn, lợ, Thái Ngọc Chiến và ctv đã tiến hành xây dựng 5
mô hình nuôi kết hợp cá - rong biển - động vật thân mềm trong cùng một ao.
Nhóm đã xây dựng và đánh giá chất lượng môi trường cũng như hiệu quả kinh
tế của các mô hình này.
6
Nghiên cứu mô hình nuôi kết hợp cá mú với vẹm xanh, rong sụn và bào ngư
là một bộ phận của đề tài nghiên cứu Khoa Học Công Nghệ Cấp Nhà Nước:
Nghiên cứu mô hình nuôi tổng hợp đa đôi tượng hải sản trên biển theo hướng bền
vững [2]. Thí nghiệm được tiến hành ở hai lồng nuôi cá mú cọp (Epinephelus
fuscoguttatus) và một lồng nuôi thêm các đối tượng vẹm xanh (Perna viridis), rong
sụn (kapaphycus alvarezii), bào ngư vành tai ( Haliotis asinine ).
Kết quả tăng trưởng lúc kết thúc thí nghiệm được thể hiện ở bảng 1.2.2
7
8
Bảng 2.2. Kết quả tăng trưởng lúc kết thúc thí nghiệm nuôi đơn và nuôi ghép cá mú với các loài khác.
Bắt đầu
Kết thúc thí nghiệm
Lồng
Đối
tượng
Wtb
(g/con)
Ghi
chú
Wtb
TLS
(%)
GWtb
GRw
(%/ngày)
GLtb
(con/ngày)
GRl
(%/ngày)
Ghi
chú
Nuôi
ghép
Cá mú
137g/con
T
830g/con
98,5
1,7
0,54
0,054
0,19
T
Vẹm
xanh
3-4cm/con
T
6-7cm/con
0,007
0,17
C
Bào ngư
1cm/con
T
4cm/con
85,55
Rong
sụn
100g/cụm
T
3kg/cụm
100
Cá mú
111,5g/con
T
750g/con
96,5
Nuôi
đơn
0,25
1,28
0,016
T
3,19
0,50
0,50
B
0,042
0,18
T
(Nguồn: [4])
Trong đó:
TLS: tỷ lệ sống
GWtb, GLtb:giá trị trung bình tốc độ tăng trưởngị tuyệt đối về trọng lượng, chiều dài.
GRw, GRl: giá trị tốc độ tăng trưởng tương đối về trọng lượng, chiều dài.
T: sinh trưởng tốt, C: sinh trưởng chậm, B: có xuất hiện bệnh.
9
Một kết quả quan trọng rút ra từ mô hình nuôi xen ghép là việc nuôi
ghép vẹm xanh, rong sụn với tỷ lệ 3:1:12 (theo trọng lượng) trong cùng một
lồng nuôi không ảnh hưởng tới sự sinh trưởng của cá mú số lượng vi sinh vật
trong đáy lồng nuôi ghép thấp hơn lồng nuôi đơn rất nhiều (127,0x 10 5CFU/g so
với 363,5x105 CFU/g) [2], [4]. Từ tháng 1/2004 đến 10/2005 Viện nghiên cứu
nuôi trồng thủy sản III và trường Đại học Thủy sản Nha Trang đã xây dựng đã
xây dựng các mô hình nuôi kết hợp nhiều đối tượng hải sản trên biển đạt hiệu
quả kinh tế cao theo hướng bền vững. Kết quả đã xây dựng thành công năm mô
hình và kỹ thuật nuôi kết hợp. Đó là các mô hình:
+ Mô hình 1: Nuôi cá mú lồng kết hợp với rong sụn, vẹm xanh, bào ngư
+ Mô hình 2: nuôi tôm hùm lồng kết hợp với rong sụn, bào ngư, vẹm xanh.
+ Mô hình 3: nuôi tôm hùm kết hợp với cá chẽm, hải sâm, rong sụn và
vẹm xanh
+ Mô hình 4: nuôi tổng hợp ốc hương với tôm hùm, hải sâm, rong biển và
vẹm xanh.
+ Mô hình 5: nuôi tổng hợp ốc hương với rong biển, vẹm xanh.
Kết quả các mô hình thể hiện qua bảng(1.2.2
Bảng 2.3. Diễn biến các yếu tố môi trường qua thời gian nuôi.
Lồng nuôi
Các chỉ tiêu
Nuôi ghép
Nuôi đơn
Điểm đối chứng
M
SD
M
SD
M
SD
Hàm lượng oxy hòa
tan (mgO2/l)
5,63
1,00
4,67
0,32
5,18
1,06
Nhiệt độ (O0)
29,00
3,74
29,80
3,56
30,56
0,01
Độ mặn
32,75
1,71
32,80
1,48
29,78
1,48
pH
8,20
0,43
8,28
0,20
7,59
0,36
BOD3 (mg/l)
4,80
0,71
4,70
O,85
4,82
0,67
NH3-N (mg/l)
0,09
0,06
0,17
0,19
0,14
0,09
NO2-N (mg/l)
0,05
0,10
0,01
0,01
0,02
0,05
NO3-N (mg/l)
0,17
0,12
O,22
0,29
0,20
0,15
10
(Nguồn [4])
Trong nghề nuôi tôm một khi dịch bệnh đốm trắng xuất hiện thì khó có
thể cứu vãn và sẽ dẫn tới thua lỗ nặng nề. Đã có nhiều nghiên cứu của các nhà
khoa học và nhà nuôi trồng để đưa ra giải pháp hạn chế dịch bệnh đặc biệt là
bệnh đốm trắng xảy ra trên tôm, trong đó các nghiên cứu về các mô hình nuôi
xen ghép đã mang lại hiệu quả cao, được coi là một biện pháp thích hợp, an toàn
và được ứng dụng rộng rãi tại các vùng nuôi trên cả nước. Trong đó biện pháp
nuôi cá rô phi kết hợp trong ao nuôi tôm đã mang lại hiệu quả rất khả quan. Biện
pháp nuôi luân canh cá – tôm là chiến lược quản lí môi trường nuôi tôm tốt hơn
cả, đây là biện pháp dọn vệ sinh và làm dán đoạn chu trình phát sinh bệnh, làm
giảm thiểu những tác động của bệnh đối với nghề nuôi tôm. Cá rô phi là đối
tượng nuôi ghép với tôm rất hiệu quả, bởi vì chúng là loài ăn tạp, phù hợp nới
vai trò “dọn vệ sinh”.
Tại An Giang, người ta nhân rộng mô hình nuôi thủy sản vừa hiệu quả,
vừa kinh tế, vừa giảm gây ô nhiễm môi trường. Đó là mô hình nuôi ghép cá tra
với các loại ăn đáy để ăn thức ăn thừa hoặc rơi rớt của cá tra, vừa không bỏ phí
vừa không gây ô nhiễm môi trường nước vùng bè nuôi cá. Anh Nguyễn Văn
Hậu ở xã An Phú huyện Phú Tân, tỉnh An Giang thử nghiệm nuôi ghép cá tra và
cá he trong bè, thả 90% con giống cá tra, 10% con giống cá he nuôi chung. Qua
theo dõi vùng nước bè nuôi cá suốt vụ không bị ô nhiễm, cá tra không bị bệnh
giảm chi phí tiền thuốc cho cá. Có thể nói đây là một trong những mô hình
hướng đến phát triển ngành nuôi trồng thủy sản lâu dài, bền vững và có hiệu quả
kinh tế cao.
Từ 2001, theo Nguyễn Đình Quang Duy (Viện Nghiên Cứu nuôi trồng
thủy sản III cho biết thưc tế tại khu vực tỉnh Khánh Hòa từ Vạn Ninh đến Cam
Ranh, một số người đã thả hải sâm cát tự nhiên trong ao nuôi tôm và trong
lồng.Theo kết quả thì hải sâm sau khi thu hoạch có kich cỡ lớn hơn hải sâm
trong tự nhiên. Tuy nhiên đây là mô hình tự phát cần nghiên cứu thêm nữa để có
hiệu quả hơn. Cũng theo TS Nguyễn Thị Xuân Thu, viện nghiên cứu nuôi trồng
thủy sản III cho biết, có thể nuôi ghép hải sâm với ốc hương để cân bằng môi
trường sinh thái và cải thiện môi trường, nhờ các đặc tính dinh dưỡng khác
nhau. Trong ao nuôi tôm, đặc biệt là ao nuôi tôm công nghiệp dạng thâm canh,
bán thâm canh lượng mùn bã hữu cơ tồn đọng trong ao rất lớn, lớp mùn bã và vi
sinh vật này nếu được hải sâm sử dụng sẽ là nguồn thức ăn phong phú cho
chúng phát triển, đồng thời hải sâm có thể thay thế các chế phẩm sinh học trong
11
xử lý ao nuôi thủy sản. Như vậy kết quả phòng bệnh cho tôm, cá hoặc ốc hương
sẽ đạt được hiệu quả tối đa. ghép một số loài thủy sản như cá chẽm, cua, ca kèo
trong vuông nuôi tôm quảng canh cải tiến, các đối tượng nuôi ghép đều phát
triển bình thường.
Với diện tích 0,7ha ao hồ tại khu vực đồng Đập Cầu, xã Thạch Mỹ
huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh, ông Trần Đình Nghi được hỗ trợ 80kg cá rô phi đơn
tính và các loại cá truyền thống khác để thả nuôi. Trong đó tỷ lệ cá rô phi đơn
tính chiếm 70%, còn mè, trôi, trắm cỏ mỗi loại 10%. Riêng cá rô phi đơn tính do
không sinh sản nên tốc độ phát triển rất nhanh, từ 0,6-0,8 kg/con (vượt 0,1-0,3
kg/con so với yêu cầu đưa ra), còn loại cá mè, trôi, trắm mỗi con đạt từ 1-1,3 kg.
Với mật độ và trọng lượng này, sản lượng cá của gia đình ông đạt 10 tấn. Trừ
chi phí thức ăn lãi ròng trên 80 triệu đồng [21].
Cùng với các mô hình nuôi kết hợp, tại Nghệ An người ta đã thử nghiệm
thành công hai mô hình nuôi hàu cửa sông và cá rô phi đơn tính với tôm sú.
Một số nơi người ta còn nuôi ghép tôm hùm nới hải sâm và vẹm xanh,
kết quả thu được như sau:
Bảng 2.4. Hiệu quả kinh tế các mô hình nuôi ghép và nuôi đơn tôm hùm.
Hình thức nuôi
Tôm hùm
Nuôi ghép
Đầu tư lưới lồng
4.000.000
4.800.000
Tổng chi phí sản xuất
14.600.000
41.254.000
Doanh thu
17.500.000
57.752.000
Lợi nhuận
2.900.000
16.498.000
Tỷ suất lợi nhuận
13%
40%
(Nguồn [ 5])
Kết quả rút ra khi so sánh hai mô hình này là tôm hùm ít dịch bệnh và
có tỷ lệ sống cao hơn 88% so với tỷ lệ nuôi đơn (70-75%) do môi trường nước
và đáy lồng nuôi được hải sâm, vẹm xanh, lọc các chất mùn bã hữu cơ, làm sạch
môi trường, Tỷ suất lợi nhuận của nuôi ghép đạt 40% cao hơn so với nuôi đơn
(13%) [5]
2.3. Tinh hình nuôi trồng thủy sản và các mô hình nuôi trồng thủy sản xen
ghép tại tỉnh Thừa Thiên Huế
2.3.1. Tình hình nuôi trồng thủy sản tại tỉnh Thừa Thiên Huế
12
Nuôi trồng thủy sản là một thế mạnh của tỉnh Thừa Thiên Huế, góp phần
giải quyết được công ăn việc làm cho khoảng 400.000 người dân sống ven đầm
phá. Nghề nuôi trồng thủy sản ở Thừa Thiên Huế bắt đầu phát triển từ những
năm 1990, đến nay đã trở thành thế mạnh trong phát triển kinh tế của tỉnh, đặc
biệt nhờ khu đầm phá Tam Giang - Cầu Hai có điều kiện hết sức thuận lợi cho
việc trồng thủy sản trong nước lợ, nước mặn ven biển.
Do nhu cầu thủy sản của thị trường thế giới ngày càng tăng cao nên nghề
nuôi tôm trở nên rất hấp dẫn, ngay từ những năm 89, 90 của thế kỉ XIX người dân
ở vùng đầm phá ở Thừa Thiên Huế đã chắn phá, đắp đập và vây lưới để nuôi tôm.
Việc nuôi tôm được xuất lan tỏa trước tiên ở các vùng nước nông ven bờ của phá.
Tại thời điểm này cho đến hết năm 1997 thì môi trường đầm phá hầu như chưa
chịu tác động xấu nào, sức tải môi trường cho phép vì diện tích nuôi tôm chưa đáng
kể và hình thức nuôi tôm chủ yếu là quảng canh hoặc quảng canh hoặc quảng canh
cải tiến với lượng thức ăn, hóa chất, kháng sinh…là rất ít [6]
Nhưng đến năm 1998-1999 thì dịch bệnh xảy ra tràn lan, tôm chết hàng
loạt làm cho người dân điêu dứng và nghề nuôi trồng thủy sản bắt đầu gặp khó
khăn. Tuy nhiên cơn lũ lịch sử 1999 đã cải tạo lại môi trường cho vùng nuôi tôm
tỉnh Thừa Thiên Huế. Cũng trong thời gian này giá tôm trên thế giới tăng đột
biến cùng với sự khuyến khích của chính quyền địa phương và nghị quyết 09
của chính phủ cho phép chuyển đổi các diện tích hoang hóa, nhiễm mặn, trồng
lúa và làm muối năng suất thấp sang nuôi tôm, dã làm cho người dân khắp nơi ồ
ạt mở rộng diện tích nuôi tôm theo hình thức bán thâm canh, thâm canh dể nâng
cao lợi nhuận [6]. Vì vậy trong những năm 2000-2003 diện tích nuôi tôm ở tỉnh
Thừa Thiên Huế tăng rất nhanh, trong những năm tiếp theo diện tích nuôi tôm
của cả tỉnh vẫn tiếp tục tăng nhưng tốc độ chậm hơn, thậm chí năm 2006 diện
tích nuôi tôm còn giảm xuống (giảm 11% so với năm 2005). Sở dĩ có hiện tượng
này là do người dân đã chuyển diện tích nuôi tôm kém hiệu quả, ao nuôi ô
nhiễm nặng sang nuôi các đối tượng thủy sản khác để giảm rủi ro [22]
Bảng 2.5. Diện tích nuôi trồng thủy sản của tỉnh Thừa Thiên Huế năm 1999-2006
(Đơn vị tính: ha).
Đối tượng nuôi
2005
2006
Diện tích tổng số
2.301 2.651 3.566 3.851 4.465 5.095 5.226
5.354
Dện tích nuôi tôm
1.462 1.770 3.016 3.197 3.622 3.997 3.646
3.081
Diện tích nuôi Cá
1999
630
2000
657
2001
538
2002
126
2003
863
2004
1.062 1.335
13
Diện tích NTTS khác
218
224
12
42
30
36
427,5
(Nguồn: [7] , [8] , [22 ])
Cùng với việc mở rộng diện tích và sản lượng, năng suất tôm nuôi cũng
không ngừng tăng lên nhờ áp dụng các biện pháp kỹ thuật khoa học tiên tiến.
Bàng 2.6. Sản lượng nuôi trồng thủy sản của tỉnh Thừa Thiên Huế
từ năm 1999-2006.
Đối tượng
1999
2000
2004
2005
2006
Tổng số
1.084
1.467 2.551 3.242 5.001 5.647
6.296
7.689
Sản lượng tôm
365
549
3.362
3.861
Sản lượng cá
515
657
764
888
2.621
3.137
Sản lượng thủy
sản khác
204
161
90
224
313
691
2001
2002
2003
1.697 2.130 3.174 3.443
1.545 1.913
282
291
(Nguồn [7], [8], [(22])
Hiện nay Thừa Thiên huế đang tích cực đầu tư phát triển nuôi trồng thủy
sản theo hướng hài hòa với môi trường, đồng thời với việc phát triển và ứng
dụng công nghệ sau thu hoạch nhằm sử dụng hợp lý, tiết kiệm sản phẩm của
nghề thủy sản, bảo đảm an toàn thực phẩm và tăng thu nhập. Phát triển và đa
dạng hóa các ngành nghề để tạo khả năng tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo và
nâng cao mức sống cho các cộng đồng ngư dân ven biển và đầm phá, giúp cho
công tác bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường biển và đầm phá phát triển
bền vững. Tỉnh chú trọng tăng cường ứng dụng công nghệ cao vào đánh bắt,
nuôi trồng và chế biến thủy sản; đầu tư phát triển các mô hình trình diễn, tổng
kết đánh giá để nhân rộng các mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Hoàn
thiện quy trình nuôi một số đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao. Triển khai
ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin vào các lĩnh vực quản lý nhà nước
trong phát triển kinh tế biển, đầm phá. Diện tích nuôi trồng toàn tỉnh Thừa Thiên
Huế hiện nay đã đạt gần 5.500 ha, trong đó, riêng năng suất bình quân tôm nuôi
đạt gần một tấn/ha, sản lượng tôm nuôi đạt hơn 3.500 tấn. Sản lượng cá nước lợ
đạt 475 tấn, sản lượng cua 200 tấn... Mô hình chuyển đổi theo hướng nuôi xen
ghép (tôm - cá), kết hợp thực hiện đồng bộ các biện pháp kỹ thuật, bảo đảm hiệu
quả kinh tế, hạn chế được dịch bệnh và tình trạng ô nhiễm môi trường. Hầu hết
các hộ nuôi tôm có lãi bình quân 20-40 triệu đồng/ha. Trong vòng năm năm,
14
nuôi tôm trên cát phát triển mạnh, với diện tích 130 ha ở vùng cát Ngũ Điền
(Phong Điền) và Vinh An (Phú Vang) năng suất đạt từ 10 đến 12 tấn/ha/vụ.[23]
2.3.2 . Các mô hình nuôi trồng thủy sản xen ghép tại tỉnh Thùa Thiên Huế.
Trước đây, người dân trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế chủ yếu nuôi tôm
công nghiệp.Mặc dù diện tích và sản lượng của tôm nuôi không ngừng tăng lên
do sự phát triển ồ ạt và thiếu sụ quy hoạch đồng bộ nên nuôi tôm ở tỉnh Thừa
Thiên Huế gặp không ít khó khăn, nhiều mô hình bị thất bại. Do tôm sú thời
gian nuôi kéo dài, đặc tính thích môi trường sạch và thoáng khí, nên sau một
thời gian nuôi nhiều địa phương xảy ra tình trạng tôm chết hàng loạt vì nguồn
nước bị ô nhiễm. Đứng trước tình hình đó tỉnh Thùa Thiên Huế dã nghiên cứu
và đưa ra giải pháp nuôi xen ghép các đối tượng thủy sản nhằm phát triển nuôi
trồng thủy sản nhanh, mạnh, và bền vững, Đặc điểm của nuôi việc ghép là mô
hình nuôi được ứng dụng và phát triển do biết cơ cấu hợp lý các giống thủy sản
nuôi trong cùng một môi trường, sống tương hỗ lẫn nhau để cùng phát triển. Đặc
biệt là việc nuôi ghép theo hướng sinh thái, giúp ổn định chất lượng và giảm
thiểu ô nhiễm nguồn nước ao nuôi.
Hiện nay, mô hình nuôi kết hợp đã và đang từng bước được ứng dụng
rộng rãi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Vào năm 2003 – 2004, Viện nghiên
cứu Nuôi trồng thủy sản II đã triển khai mô hình nuôi sinh thái ốc hương, rong
sụn, rong câu, cá dìa, vẹm xanh tại đầm Lăng Cô, bước đầu đã hạn chế dịch
bệnh trên ốc hương
Chủ trương nuôi ghép đang được các địa phương trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế triển khai và thực hiện. Trong những năm gần đây do sự tác động của
khoa học kỹ thuật, khuyến ngư và tự phát của người dân nên diện tích nuôi xen
ghép không ngừng tăng lên. Tại tỉnh Thừa Thiên Huế hiên nay co nhiều mô hình
nuôi trồng thủy sản xen ghép trên tất cả cac thủy vực mặn, lợ và ngọt, đặc biệt là
nuôi kết hợp một số loài cá nước ngọt và nuôi xen ghép một số đối tượng với
tôm thấp triều. Hiện nay đầm phá tại Phú Vang,tỉnh Thừa Thiên Huế đã áp dụng
thành công mô hình nuôi xen ghép tôm rằn và một số đôi tượng nuôi có y nghĩa
cải tạo môi trường ao cao như cá rô phi, cá đối lá, cá dìa, cá kình, trìa mỡ…[13]
Bên cạnh đó, trung tâm Khuyến ngư tỉnh Thừa Thiên Huế kết hợp với dự
án IMOLA II, đã tiến hành thử nghiệm nhiều mô hình nuôi xen ghép khác nhau
như: nuôi tôm xen canh ở Quảng Thành (Quảng Điền) và ThuậnAn (Phú Vang).
Vào năm 2003, nuôi cá Dìa - rong câu - tôm sú (năm 2005) tại Hương Phong
(HươngTrà), mô hình nuôi cá dìa giống sinh sản nhân tạo kết hợp với rong câu
15
chỉ vàng và tôm sú tại xã Hương Phong (Hương Trà) năm 2007, mô hình nuôi
ghép tôm sú, cá đối trong ao cao triều tại xã Lộc Bình (Phú Lộc) năm 2009.
Tại huyện Hương Trà năm 2010, Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn quản
lý tài nguyên (CORENARM) đã phối hợp với chuyên gia của phòng nông
nghiệp huyện Hương Trà triển khai mô hình tôm xen ghép ở khu vực thôn
Thuận Hòa, xã Hương Phong, huyện Hương Trà. Mô hình đã được triển khai
trên diện tích 2 ha mặt nước với sự tham gia của 4 hộ trên mỗi năm. Đối tượng
thủy sản mà chuyên gia của dự án lựa chọn để nuôi ghép là tôm sú, cá đối, cá dìa
và cua. Theo đánh giá đây là những đối tượng có giá trị kinh tế cao và được thị
trường ưa chuộng. Kết quả thực hiện mô hình cũng cho thấy, các chỉ số môi
trường ao nuôi như: độ mặn, độ pH đều tương đối ổn định. Tỷ lệ cá kình và tôm
sống tương đương nhau, khoảng 80% đến 90% so với số lượng thả ban đầu.
Điều quan trọng là, việc nuôi tôm sú xen cá kình và cua không ảnh hưởng nhau
mà con tương trợ và bổ sung cho nhau giúp hạn chế được chi phí cho người nuôi
và tạo ra môi trường nuôi tốt, ít bị dịch bệnh [24] đã mở ra một hướng đi mới
cho ngành nuôi trồng thủy sản tại huyện Hương Trà –phát triển nuôi trồng thủy
sản theo hướng nuôi xen ghép.
Ở thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang đã từ rất lâu người ta thả cá chép,
cá rô phi, cá dìa trong ao nuôi tôm sú và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho
ngư dân. Ở mô hình nuôi cá lồng, người ta cũng biết kết hợp nuôi cá hồng và cá
mú trong lồng để tận dụng không gian nuôi, và thả cá dìa vào lồng để làm sạch
lồng. Tuy nhiên các mô hình này còn mang tính chất tự phát do đó hiệu quả
chua cao, cần xác định tỷ lệ thả ghép phù hợp để có hiệu quả cao hơn
2.4.Tình hình nuôi trồng thủy sản và các mô hình nuôi trồng thủy sản xen
ghép tại xã Quảng An
2.4.1. Tình hình nuôi trồng thủy sản tại Quảng An
Xã Quảng An, Quảng Điền là một trong 33 xã thuộc khu vực đầm phá
Tam Giang với diện tích mặt nước đầm phá là 400 ha đây là một trong những
vùng đi đầu trong phong trào nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi tôm nói
riêng tại huyện Quảng Điền, trước đây Quảng An là vùng phát triển mạnh nuôi
tôm trên đầm phá đặc biệt sau trận lụt lịch sử 1999 tạo điều kiện thuận lợi cho
việc phát triển nuôi trồng thủy sản. vì vậy có rất nhiều hộ gia đình trở thành nhà
tỷ phú nuôi tôm. Với điều kiện là một xã thuần nông ven phá trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội ở Quảng An, Quảng Điển nuôi trồng thủy sản được coi
là ngành kinh tế mũi nhọn, trọng điểm và lâu dài. Vì vậy trong nhiều năm vừa
16
qua cùng với Đảng bộ và chính quyền địa phương, các câp, các ngành liên quan
đã tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc về nuôi trồng thủy sản của xã
nhằm tăng thu nhập giải quyết việc làm cải thiện đời sống cho nhân dân.
Quảng An là xã đầu tiên phát triển nghề nuôi tôm sú của Quảng Điền bắt
đầu từ những năm 1991 nghề nuôi tôm phát triển mạnh mẽ và bùng nổ từ năm
1996-2001 diện tích nuôi trồng thủy sản trong nhưng năm qua không ngừng tăng
nhanh qua các giai đoạn [10], [19].
Biểu đồ 2.1. Diện tích nuôi trồng thủy sản xã Quảng An năm 1996-2012.
Cũng giống như những ngành sản xuất, chăn nuôi khác, nuôi trồng thủy
sản cũng gây ảnh hưởng xấu tới môi trường. Những tác động môi trường của
việc nuôi trồng thủy sản phụ thuộc vào việc lựa chọn các đôi tượng và các hệ
thống nuôi. Sau năm 2001 tình trạng môi trường tại các hồ nuôi bị ô nhiễm, dịch
bệnh có xu hướng gia tăng đặc biệt là bệnh đốm trắng xuất hiện và bùng phát
trên diện rộng với tình hình thời tiết không thuận lợi đã ảnh hưởng tới năng suất
và sản lượng nuôi trồng thủy sản của xã nhà. Trước tình hình nuôi tôm gặp
nhiều khó khăn về kinh tế, dịch bệnh và môi trường vùng nuôi trên địa bàn xã
Quảng An. Có nhiều chủ trương, chính sách mới nhằm giải quyết những khó
khăn cho người nuôi tôm. Trong năm 2009 lãnh đạo xã chỉ đạo phát triển nuôi
trồng thủy sản theo hướng bền vững đa canh, xen canh nên hiệu quả kinh tế
mang lại khá rõ nét, việc đưa mô hình nuôi trồng thủy sản xen ghép vào thay thế
cho hình thức nuôi tôm chuyên canh là một giải pháp được nhiều nghiên cứu
ứng dụng và đạt được kết quả cao. Năm 2009 là năm đầu tiên xã Quảng An triển
khai và nhân rộng mô hình nuôi xen ghép và đạt được kết quả khả quan, mở ra
hướng đi mới cho nghề nuôi trồng thủy sản của xã nhà. Với tổng diện tích mặt
17
nước là 153.16 ha, trong đó diện tích bỏ hoang là 21.5 ha, diện tích nuôi là
131.66 ha (trong đó nuôi chế phẩm sinh học là 15,25 ha.
Bảng 2.7. Bảng thống kê kết quả đạt được nuôi trồng thủy sản tại xã
Quảng An năm 2009.
Tổng số hộ
Có lãi
Hòa vốn
Thua lỗ
Số hộ
183
112
42
29
Tỷ lệ (%)
100
61
17.9
21.1
[Nguồn 10]
Đặc biệt năm 2009 với sụ phối hợp của trường Đại Học Nông Lâm
Huế và ban chỉ đạo của Ủy Ban Nhân Dân xã và cấp huyện, cùng với sự chỉ đạo
của UBND xã và sự hưởng ứng tham gia của người dân nên trong 24 hộ nuôi
tôm có sử dụng chế phầm sinh học thì có 19 hộ lãi (chiếm 79%), 5 hộ hòa vốn
(chiếm 21%0, không có hộ lỗ vốn. Tổng giá trị mang lại là 5,222 tỷ đồng/ 5 tỷ
đồng kế hoạch, đạt 104% [11].
2.4.2. Tình hình nuôi trồng trồng thủy sản xen ghép tại xã Quảng An
Dưới sự chỉ đạo của các cấp, các Ngành và sự quan tâm sâu sắc của các
đơn vị có liên quan. Người dân đã dần xác định cho mình những hình thức nuôi
phù hợp với thực tế của gia đình và địa phương đó là nuôi xen ghép nhiều đối
tượng, nuôi trông thủy sản xen ghép hiện nay đã trở thành giải pháp chiến lược
cho sự phát triển kinh tế của xã Quảng An. Từ thực tế sản xuất cơ cấu nuôi xen
ghép được xác định là 3 đối tượng chủ lực bao gồm tôm sú – cá kình – cua ngoài
ra tùy điều kiện cụ thể xen thêm các đối tượng khác như cá dìa, cá nâu, cá đối cá
rô phi, rong câu, tôm đất…
Trong các đối tượng nuôi xen ghép với tôm sú, cá rô phi, tôm đất và cua
biển đã chủ động được nguồn giống sinh sản nhân tạo. Các đối tượng còn lại gần
như phụ thuộc vào tự nhiên.
Từ năm 2009 lãnh đạo xã Quảng An đã chỉ đạo nhân rộng nuôi trồng thủy
sản xen ghép. Với diện tích nuôi là 131,665 ha trong đó nuôi chuyên tôm còn lại
là 13 ha, nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình là 111,3 ha nuôi xen ghép tôm với cá
dìa là 5,2 ha nuôi xen ghép cá rô phi, trắm cỏ là 1,165 ha. Tổng sản lượng thu
được là 72.520 kg, tổng giá trị mang lại là 5,222 tỷ đồng.
18
Nhờ chọn được hướng đi đúng, nhiều cách làm hay nên trong năm 2010
nghề nuôi thủy sản trên địa bàn Quảng An đạt kết quả khá tích cực gần 99%
diện tích nuôi trồng thủy sản tại xã Quảng An là nuôi xen ghép.
Diện tích thả nuôi 129,1 ha/120 ha đạt 107% kế hoạch, trong đó:
+ Nuôi chuyên tôm 1,65 ha (chiếm 1,3%).
+ Nuôi xen ghép tôm với cá kình, cua 113,45 ha (chiếm 87,9%).
+ Nuôi cá kình, cá dìa 14 ha (chiếm 10,8%).
- Tổng giá trị sản lượng cua cá là 5,806 tỷ đồng, bình quân 1 ha thu dưới
45 triệu đồng.
- Số hộ có lãi: 127/178 hộ đạt 71%.
- Hộ huề vốn: 36 hộ đạt 20%.
- Hộ thua lỗ: 16 hộ đạt 9%.
Đặc biệt, nhờ nuôi xen ghép nhiều đối tượng nên dịch bệnh ít xảy ra, nhất
là bệnh đốm trắng trên toàn xã chỉ có 1,85 ha/4 hộ bị bệnh đốm trắng.[12]. Năm
2012 do sự ảnh hưởng biến đổi khi hậu nên người dân gặp nhiều khó khăn về
nguồn giống cá dìa và cá kình là nguồn giống khai thác từ tự nhiên đặc biệt là cá
dìa không khai thác được nên người dân chủ yếu nuôi xen ghép tôm, cua, cá với
diện tích là 130 ha/188 ha thả nuôi [1].
19
Phần 3.
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.
Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
3.1.1. đối tượng nghiên cứu
Các mô hình nuôi trồng thủy sản xen ghép tại xã Quảng An, huyện Quảng
Điên, tỉnh Thừa Thiên Huế
- Mô hình xen ghép tôm, cua, cá kình.
- Mô hình xen ghéo tôm, cua.
- Mô hình xen ghép tôm, cá kình.
3.1.2. Thời gian nghiên cứu
Từ ngày 113/2013 đến 25/5/2013
3.1.3.
Địa điểm nghiên cứu
Địa điểm phỏng vấn tại xã Quảng An huyện Quảng Điền tỉnh Thừa
Thiên Huế.
3.1.4.
Điều kiện tự nhiên tại địa bàn nghiên cứu
3.1.4.1. Vị trí địa lí
Xã Quảng với diện tích tự nhiên là 1335 ha trong đó diện tích mặt nước
đầm phá là 400,42 ha chiếm gần 30% đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của ngành nuôi trồng thủy sản của địa phương.
Xã có 5 thôn và 2 hợp tác xã, trong đó thôn An Xuân giáp với phá Tam
Giang chiếm ½ diện tích và dân số của xã, đây cũng là nơi tập trung chủ yếu
của các cán bộ nuôi trồng thủy sản tại địa phương.
Vị trí xã được xác định như sau:
Phía đông: Giáp Biển
Phía tây: Giáp Quảng Phước
Phía nam: Giáp Quảng Thành
Phía bắc: Giáp Quảng Công
20
- Xem thêm -